CHUYÊN ĐỀ 2 : ÔN – LUYỆN PHƯƠNG PHÁP LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI I. MỘT VÀI LƯU Ý CHUNG: - Các vấn đề được nêu ra trong các đề nghị luận xã hội thường là những vấn đề về tư tưởng đạo lý hay một hiện tượng xã hội có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến đời sống của cá nhân hay xã hội. - Các vấn đề ấy thường được thể hiện trong các câu danh ngôn, tục ngữ hay ngạn ngữ, nên chúng thường trừu tượng. - Chính vì vậy, khi nghị luận một vấn đề xã hội, người viết cần có sự linh hoạt trong nhận thức vấn đề, và từ nhận thức đi đến trình bày cái hiểu là cả một quá trình để áp dụng cái mình hiểu. - Văn nghị luận xã hội trong chương trình làm văn 12 được chia ra làm 3 kiểu bài : Nghị luận về tư tưởng đạo lý ; nghị luận về hiện tượng đời sống; Nghị luận một vấn đề trong tác phẩm văn học. Nhưng thực tế, rất khó phân biệt rạch ròi nét riêng của từng kiểu bài (vì các vấn đề xã hội trong một bài văn nghị luận xã hội thường có sự đan xen vào nhau). * Cấu trúc của bài nghị luận Một bài nghị luận xã hội dù dung lượng không dài cũng vẫn phải đảm bảo cấu trúc của một bài làm văn, nghĩa là vẫn phải có mở đầu, thân bài và kết luận. - Phần mở bài cần phải nêu được vấn đề trọng tâm mà đề ra yêu cầu. - Phần thân bài, phải triển khai tiếp các luận điểm đã được nêu ra ở phần một. - Phần kết bài , người viết phải đưa ra tổng kết của cá nhân mình về vấn đề đã nêu, đúng hay sai? Bài học nào được rút ra cho cá nhân người viết? II/ MỘT VÀI ĐỊNH HƯỚNG VỀ PHƯƠNG PHÁP : 1/ Với kiểu bài nghị luận về tư tưởng đạo lí : * Cần lưu ý: a) Đề tài - Đề tài của nghị luận về tư tưởng, đạo lí là vô cùng phong phú, bao gồm: - Các vấn đề về nhận thức như lí tưởng, mục đích sống,… - Các vấn đề về tâm hồn, tính cách như: + Lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ lượng,… + Tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn,… + Thói ích kỉ, ba hoa, vụ lợi,… - Về các quan hệ gia đình như tình mẫu tử, anh em,… - Về quan hệ xã hội như tình đồng bào, tình thầy trò, bạn bè,… - Về cách ứng xử, những hành động của mỗi người trong cuộc sống. b) Các dạng đề thường gặp : + Dạng mệnh lệnh ( thường có các lệnh : suy nghĩ, bình luận, giải thích, chứng minh, bác bỏ…) + Dạng mở, không có mệnh lệnh ( thường chỉ cung cấp một câu tục ngữ, một khái niệm mang tư tưởng, đòi hỏi người làm bài phải suy nghĩ để làm sáng tỏ) c) Yêu cầu về nội dung : là phải làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng, đạo lý bằng cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu , phân tích …để chỉ ra chỗ đúng - chỗ sai của một vấn đề nào đó thuộc về tư tưởng , nhằm khẳng định tư tưởng của người viết. c- Yêu cầu về hình thức : bài viết phải có bố cục ba phần, có luận điểm đúng đắn, sáng tỏ; lời văn phải chính xác, sinh động. d) Cách làm : * Tìm hiểu đề và tìm ý : - Đọc kỹ đề và trả lời các câu hỏi : đề thuộc loại nào? Đề nêu vấn đề tư tưởng đạo lý gì?Đề yêu cầu làm gì?Thao tác lập luận để nghị luận? - Tìm ý : phân tích để khẳng định ( hoặc phủ định) tư tưởng đạo lí đó bằng những ý kiến nào? * Lập dàn ý : @/ Mở bài :+ Giới thiệu vấn đề được đưa ra bình luận. + Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu danh ngôn hoặc nội dung bao trùm của danh ngôn. + Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai. @/ Thân bài - Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư tưởng, đạo lí này). - Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán những sai lệch (nếu có). - Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và hành động. ( Lưu ý : trong quá trình giải thích, phân tích, bàn luận vấn đề cần lấy dẫn chứng minh họa (ngắn gọn, tiêu biểu, dễ hiểu) để chứng minh làm cho lý lẽ thêm phần xáx đáng và thuyết phục @/ Kết bài Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận. 2/ Với kiểu bài về hiện tượng đời sống: a. Các dạng đề : - Có sự việc , hiện tượng tốt cần ca ngợi, biểu dương. - Có sự việc , hiện tượng không tốt cần lưu ý , phê phán,nhắc nhở. - Có đề cung cấp sẵn sự việc, hiện tượng dưới dạng một truyện kể, một mẩu tin để người làm bài làm cơ sở nghị luận; cũng có đề không cung cấp nội dung sẵn mà chỉ gọi tên vấn đề, người làm bài phải tự trình bày , mô tả sự việc , hiện tượng đó. b. Yêu cầu về nội dung : + Cần hình dung rõ sự việc, hiện tượng đời sống .Cụ thể : nêu được sự việc hiện tượng cần nghị luận, gọi tên nó, kể ra các biểu hiện và mức độ phổ biến của nó đến đâu. + Phân tích , đánh giá tốt - xấu , lợi-hại , hay-dở của sự việc hiện tượng , chỉ ra nguyên nhân của sự việc, hiện tượng bày tỏ thái độ đồng tình hay không đồng tình; biểu dương hay phê phán… c. Yêu cầu về hình thức: bố cục mạch lạc, có luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực… d. Cách làm bài : * Tìm hiểu đề và tìm ý : - Đọc kỹ đề để xác định : Đề thuộc lạo nào? Đề nêu ra hiện tượng gì, sự việc gì? Đề yêu cầu làm gì? - Tìm ý : + Phân tích để tìm hiểu ý nghĩa của sự việc, hiện tượng. + Đánh giá hiện tượng ở những khía cạnh nào? * Lập dàn ý: @/ Mở bài : Giới thiệu chung sự việc, hiện tượng có vấn đề. @/ Thân bài : 1. Giải thích làm rõ bản chất của hiện tượng. 2. Phân tích, chứng minh , bình luận ; bác bỏ để làm rõ : thực trạng, nguyên nhân và các mặt tốt- xấu ; lợi – hại của hiện tượng. 3. Đề xuất giải pháp phát huy ( nếu là hiện tượng tốt ) hay khắc phục ( nếu hiện tượng xấu ). @/ Kết bài : Kết luận, khẳng định, liên hệ. * So sánh điểm giống và khác giữa hai kiểu bài nghị luận về Tư tưởng đạo lý và kiểu bài Hiện tượng đời sống:: • Điểm giống : + Mục đích :Cả hai kiểu bài, sau khi phân tích, chứng minh vấn đề thì đều rút ra những bài học có ý nghĩa về tư tưởng và đạo lý cho mỗi người và cho cuộc sống. • Điểm khác: - Về xuất phát điểm : + Bài nghị luận về hiện tượng đời sống xuất phát từ thực tế đời sống mà nêu tư tưởng, bày tỏ thái độ. + Bài nghị luận về tư tưởng, đạo lý thì trái lại, xuất phát từ tư tưởng đạo lý,sau khi giải thích, phân tích vấn đề thì vận dụng các sự thật đời sống để chứng minh, nhằm trở lại khẳng định hay phủ định một tư tưởng nào đó. - Về lập luận: + Nghị luận về hiện tượng đời sống thiên về sử dụng nhiều các thao tác phân tích,chứng minh, bình luận, bác bỏ. + Nghị luận tương tưởng , đạo lý thiên về sử dụng các thao tác giải thích, chứng minh, bình luận. 3/ Nghị luận một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học : - Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học là kiểu bài nghị luận xã hội , không phải là kiểu bài nghị luận văn học. Cần tránh tình trạng làm lạc đề sang nghị luận văn học. - Vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học có thể là một tư tưởng, đạo lí hoặc một hiện tượng đời sống (thường là một tư tưởng, đạo lí) @/Đề tài: - Một vấn đề xã hội có ý nghĩa sâu sắc nào đó đặt ra trong tác phẩm văn học, - Vấn đề xã hội có ý nghĩa có thể lấy từ hai nguồn: tác phẩm văn học đã học trong chương trình hoặc một câu chuyện nhỏ, một văn bản văn học ngắn gọn mà HS chưa được học. @/ .Về cấu trúc triển khai tổng quát: 1/Phần một: Phân tích văn bản (hoặc nêu vắn tắt nội dung câu chuyện) để rút ra ý nghĩa của vấn đề (hoặc câu chuyện). 2/Phần hai (trọng tâm): Nghị luận (phát biểu) về ý nghĩa của vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học (câu chuyện). @/. Dàn ý chung: a. Mở bài: - Dẫn dắt vào đề (…) - Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề xã hội mà tác phẩm nêu ở đề bài đặt ra (…) - Trích dẫn câu thơ, câu văn hoặc đoạn văn, đoạn thơ nếu đề bài có nêu ra (…) b. Thân bài: * Phần phụ: Giải thích và rút ra vấn đề xã hội đã được đặt ra từ tác phẩm (…) - Lưu ý: Phần này chỉ giải thích, phân tích một cách khái quát và cuối cùng phải chốt lại thành một luận đề ngắn gọn. * Phần trọng tâm: Thực hiện trình tự các thao tác nghị luận tương tự như ở bài văn nghị luận về tư tưởng đạo lí hoặc nghị luận về hiện tượng đời sống như đã nêu ở trên (…) - Lưu ý: Khi từ “phần phụ” chuyển sang “phần trọng tâm” cần phải có những câu văn “chuyển ý” thật ấn tượng và phù hợp để bài làm được logic, mạch lạc, chặt chẽ. c. Kết bài: - Khẳng định chung về ý nghĩa xã hội mà tác phẩm văn học đã nêu ra (…) - Lời nhắn gửi đến tất cả mọi người (…). C/Luyện tập và tham khảo : I/ Một số dàn bài tham khảo : @/ ĐỀ 1. Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn tạo nên thành tựu (đề thi ĐH, khối C, 2012) Đáp án sơ lược 1. Giải thích ý kiến – Kẻ cơ hội là người lợi dụng thời cơ để mưu cầu lợi ích trước mắt, bất kể việc làm đúng hay sai; người chân chính là người luôn biết sống đúng với thực chất và phù hợp với những giá trị xã hội; thành tích là những kết quả được đánh giá tốt; thành tựu là những thành quả có ý nghĩa lớn, thường chỉ đạt được sau một thời kì phấn đấu lâu dài. – Về nội dung, đây là ý kiến chỉ ra sự đối lập về lối sống và cách hành xử trong công việc giữa loại người cơ hội và chân chính. 2. Bàn luận về ý kiến a. Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích – Do thói vụ lợi, bất chấp đúng sai nên trong công việc, kẻ cơ hội không cầu kết quả tốt, mà chỉ cầu được đánh giá tốt. Kẻ nào càng vụ lợi thì lại càng nôn nóng có được thành tích. Bởi thế, loại người này thường chỉ tạo ra những thành tích giả. – Về thực chất, cách hành xử ấy là lối sống giả dối khiến cho thật giả bất phân, làm băng hoại các giá trị về đạo đức; lối sống cơ hội này đã khiến bệnh thành tích lan tràn như hiện nay. b. Người chân chính thì kiên nhẫn lập nên thành tựu – Coi trọng chất lượng thật, kết quả thật là đức tính của người chân chính. Bởi thế loại người này thường kiên nhẫn trong mọi công việc để tạo nên những kết quả thực sự, những thành quả có ý nghĩa lớn. Đối với họ chỉ có những thành quả thực sự mới tạo nên giá trị thực của con người, dù có khi phải trả giá đắt. – Về thực chất, cách hành xử ấy thuộc về lối sống chân thực, biểu hiện của những phẩm chất cao quý; giúp tạo nên những thành quả thực, những giá trị đích thực cho mình và cộng đồng, góp phần thúc đẩy xã hội tiến lên. 3. Bài học về nhận thức và hành động – Cần nhận thức rõ đây là hai kiểu người đối lập nhau về nhân cách: một loại người tiêu cực thấp hèn cần phê phán, một mẫu người tích cực cao cả cần trân trọng. – Cần noi theo lối sống của những người chân chính, luôn coi trọng những kết quả thật và kiên nhẫn phấn đấu để lập nên những thành tựu; đồng thời lên án lối sống cơ hội, nôn nóng chạy theo thành tích giả. @/ĐỀ 2: “Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống” (Norman Kusin). Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày những suy nghĩ của anh/chị về câu nói trên. Đáp án chi tiết 1. Đặt vấn đề – Cuộc sống với mỗi con người là điều quan trọng nhất. Ai trên đời này lại không yêu cuộc sống. Đó là điều không thể phủ nhận. Vì thế, cũng không thể phủ nhận, cái chết là nỗi bất hạnh lớn nhất với mỗi con người. Từ xưa tới nay, con người luôn tìm hiểu và tìm mọi cách chế ngự cái chết để giành sự sống. – Nói “cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống” như Norman Kusin cũng không hề sai. Cuộc sống và cái chết là hai thái cực đối lập nhau dữ dội. Bởi thế càng yêu cuộc sống, con người lại càng sợ hãi trước cái chết. Nhưng, có một nỗi sợ lớn lao hơn cái chết, đó là khi còn sống, người ta để cho “tâm hồn mình tàn lụi”. 2. Thân bài : a.. Giải thích câu nói của Kusin – “Cái chết không phải là mất mát lớn nhất”: Để làm sâu sắc chân lí này, trước tiên cần phải khẳng định giá trị cuộc sống của con người, khẳng định cái chết với mỗi con người quả nhiên là sự mất mát lớn nhất. Chết là chấm dứt sự sống, chấm dứt sự tồn tại hữu hình của con người. Khi chết, người ta sẽ phải rời xa vĩnh viễn tất cả những gì yêu thương, gắn bó, không còn được tận hưởng niềm hạnh phúc, những thú vui, lao động, cống hiến và sáng tạo. “Mỗi con người chỉ được sống một lần…”, một nhà văn Nga đã từng nói như thế. Và như thế, cũng có nghĩa, một con người bình thường, không thể không coi cái chết là sự mất mát lớn nhất. Vậy nhưng, theo Norma Kusin, có một nỗi mất mát còn lớn hơn, đó là khi người ta “để cho tâm hồn tàn lụi khi còn sống”. Tại sao lại thế? – “Điều đáng sợ nhất là để tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống”: Cuộc sống của con người tồn tại ở hai dạng thể chất và tinh thần. Một cuộc sống có ý nghĩa phải là sự hài hoà giữa hai trạng thái trên. Một cuộc sống tinh thần đầy đủ đúng nghĩa là phải được thoả mãn đầy đủ về mặt tâm hồn. Nghĩa là phải có khát vọng lao động và sáng tạo; phải biết rung động trước cuộc đời, biết yêu và biết ghét, yêu cái đẹp và ghét những cái xấu xa; không để tâm hồn chai sạn, vô cảm trước mọi nỗi buồn vui của cuộc đời. b. Bàn luận mở rộng về câu nói của Kusin – Tại sao cái chết không phải là mất mát lớn nhất? – Cuộc sống với con người thật là quý giá. Nhưng không ai có thể vĩnh viễn trong cuộc đời này. Đó là quy luật. Tuy nhiên, cái chết với mỗi con người không có nghĩa là kết thúc, là dấu chấm hết. Bởi lẽ, có những cái chết vẫn để lại “muôn vàn tình thân yêu”; chết nhưng lại “gieo mầm sự sống”, để lại cho muôn đời sau sự ngưỡng mộ, kính yêu. Chị Võ Thị Sáu ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, nhưng tên tuổi, tâm hồn, vẻ đẹp của chị vẫn mãi sống trong lòng nhân dân. Một cái chết như thế đâu phải là mất mát lớn nhất? – Sự tàn lụi trong tâm hồn khi còn sống mới là đáng sợ: Sự sống không đơn giản chỉ là ăn uống, hít thở, hưởng thụ, tận hưởng về mặt vật chất. Có những người sống trong cuộc đời chỉ coi trọng điều này. Rõ ràng, họ không chết về mặt thể chất. Thế nhưng, tâm hồn của họ trống rỗng; họ vô cảm, dửng dưng trước mọi nỗi buồn vui của cuộc đời; chỉ biết “yêu” bản thân mình, không ước mơ và khát vọng…Một cuộc sống như thế chính là “cái chết” về mặt tâm hồn. Cái chết này thậm chí còn đáng sợ hơn, khủng khiếp hơn “cái chết thể chất”. Đó là lí do khiến Trương Ba xin được “chết” khi Đế Thích vẫn cho ông sống, nhưng là sống trong vỏ bọc thể xác của một người khác, không phải là mình. 3. Liên hệ với bản thân trong cuộc sống hiện nay Tóm lại,trong cuộc sống hiện nay, khi mà nhu cầu vật chất không còn là điều quá khó khăn, mỗi con người đều có thể dễ dàng thoả mãn nhu cầu vật chất của mình. Xã hội càng hiện đại, tiện nghi, con người lại càng dễ có nguy cơ sa vào lối sống hưởng thụ, vô cảm, lạnh lùng, mất phương hướng. Sống tích cực, lạc quan, chan hoà, yêu thương và chia sẻ chính là cách tốt nhất để con người không rơi vào tình trạng “tâm hồn tàn lụi”. @/ Đề 3: Nhà văn Nga L.Tôn-xtôi nói “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Anh/ chị hãy viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) nêu suy nghĩ của mình về vai trò của lý tưởng trong cuộc sống của mỗi người. * Gợi ý a) Mở bài - Giới thiệu về ý kiến của L.Tôn-xtôi. - Nêu nội dung câu nói của L.Tôn-xtôi: + Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường ; không có lí tưởng thì không có cuộc sống. + Nâng cao vai trò của lí tưởng lên một tầm cao ý nghĩa của cuộc sống. Ở đây đòi hỏi phải giải thích mối quan hệ giữa lí tưởng và ngọn đèn, phương hướng và cuộc sống. - Yêu cầu của đề: suy nghĩ về vai trò của lí tưởng nói chung đối với mọi người và lí tưởng riêng của mình. @) Thân bài 1/ Giải thích câu nói của L.Tôn-xtôi về vai trò của lí tưởng đối với cuộc sống: - Lý tưởng là gì?T ại sao Tôn xtôi lại nói “ Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường?” + Lí tưởng là ước mơ, khát vọng định hướng cuộc sống. Lí tưởng xấu có thể làm hại cuộc đời của một người và nhiều người. Không có lí tưởng tốt đẹp thì không có cuộc sống tốt đẹp. - Vai trò của lý tưởng trong cuộc sống : + Lí tưởng tốt đẹp, thực sự có vai trò chỉ đường vì đó là lí tưởng vì dân, vì nước, vì gia đình và hạnh phúc bản thân. Lí tưởng tốt đẹp có vai trò chỉ đường cho chính sự nghiệp cụ thể mà mỗi người theo đuổi: khoa học, giáo dục, an ninh, kinh doanh,… ( Nêu những dẫn chứng là những tấm gương về những người có khát vọng lớn lao thực hiện được lí tưởng vì cuộc sống chung đã từng có trong lịch sử nhân loại, trong văn học). + Nhờ có lý tưởng cuộc sống mới có ý nghĩa, có sự định hướng để đạt được mục đích tốt đẹp. 2/- Nêu suy nghĩa tán thành hay không tán thành đối với ý kiến của nhà văn Nga. - Nêu lí tưởng riêng của mình: vấn đề bức thiết đặt ra cho mỗi HS tốt nghiệp THPT là chọn ngành nghề, một ngưỡng cửa để bước vào thực hiện lí tưởng. - Từ đó , xác định được lí tưởng, mục đích sống và biết ước mơ, biết hành động để thức hiện ước mơ đó. @/Đề 4: Lập dàn ý cho đề bài sau (đề 1 SGK Ngữ văn Nâng cao, tập 1, trang 202): Báo Tuổi trẻ ngày 12/07/2004 đưa tin: “Theo Ban Chỉ đạo tuyển sinh đại học năm 2004, sau hai đợt thi đã có 3186 thí sinh bị xử lí kỉ luật do vi phạm quy chế thi, trong đó có 2637 thí sinh bị đình chỉ thi, chủ yếu do mang và sử dụng tài liệu trong phòng thi. Hình thức mang tài liệu, phao thi ngày càng tinh vi, chúng được giấu trong thước kẻ, điện thoại di động, trong đế giày”. Hãy bình luận về thực trạng đó. a) Mở bài: Nêu hiện tượng, trích dẫn đề, nhận định chung. b) Thân bài: - Phân tích hiện tượng: + Hiện tượng thí sinh vi phạm quy chế thi, bị xử lí kỉ luật lên đến hai, ba nghìn người là hiện tượng chứng tỏ một bộ phận thí sinh thiếu tự do chưa có kiến thức vững vàng, động cơ, thái độ học tập, thi cử không đúng đắn. + Hiện tượng sử dụng nhiều hình thức mang tài liệu tinh vi chứng tỏ nhiều thí sinh đã có ý thức vi phạm quy chế từ ở nhà, có chủ ý không tuân thủ quy chế thi, rõ ràng là phạm pháp có ý thức. + Việc xử lí của các Hội đồng thi chứng tỏ việc thi cử được tổ chức nghiêm túc, các giám thị đã có thái độ nghiêm khắc cần thiết. - Bình luận hiện tượng: Hàng năm, cả nước ta có khoảng tám, chín trăm nghìn cho đến một triệu thí sinh thi đại học. Con số hai, ba nghìn nói trên là rất ít so với tổng số. Đa số thí sinh Việt Nam có thái độ thi cử nghiêm túc, đúng đắn, tôn trọng quy chế thi. Không nên vì một số ít có thái độ sai phạm mà vơ đũa cả nắm, đánh giá sai toàn bộ thí sinh. - Phê phán những mặt sai: + Thái độ, động cơ học tập. + Thái độ gian lận, cố tình vi phạm. - Khẳng định đa số học sinh có thái độ đúng đắn , giám thị hoàn thành tốt nhiệm vụ coi thi. c) Kết bài - Kêu gọi các thi sinh có thái độ đứng đắn trong thi cử, đảm bảo chất lượng các kì thi tuyển sinh. - Bài tỏ thái độ của người viết trước hiện trạng đó. @/ Kết bài: Khẳng định vai trò của lí tưởng trong cuộc sống mỗi con người mỗi thế hệ, mỗi dân tộc. @/ Đề 5 : Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời… ( “Đất Nước” – Trích “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm) Dựa vào những câu thơ trên , anh /chị hãy phát biểu trong một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) ý kiến cá nhân về trách nhiệm của thế hệ thanh niên hiện nay với đất nước. *Gợi ý: Căn cứ vào khả năng nhận thức và hiểu biết nội dung của đoạn thơ, h/s có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần nêu được các ý chính: - Nội dung ý nghĩa của đoạn thơ: Đất nước kết tinh , hoá thân trong mỗi con người; con người phải có tinh thần cống hiến, hy sinh, có trách nhiệm với sự trường tồn của quê hương , đất nước. - Suy nghĩ cá nhân về lới nhắn nhủ trong những câu thơ trên về trách nhiệm của thanh niên ( nói chung) và của bản thân ( nói riêng) với đất nước. + Trách nhiệm trong việc tự học, tự rèn của bản thân ở cả các phương diện : sức khoẻ ; trí tuệ; đạo đức, tư cách… + Trách nhiệm trong việc xây dựng và bảo vệ quê hương,Tổ quốc. @/ Đề 6: “Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, Tổng thống Mĩ A.Lin Côn viết: “xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi cử”. Từ ý kiến trên, hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống. (đề thi ĐH, khối C, năm 2009) * Gợi ý: Hướng dẫn học sinh có thể nêu ý kiến riêng và trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu bật các ý chính: - Trong cuộc sống, con người ta đôi khi phải biết chấp nhận để đem lại nhiều điều tốt đẹp cho cuộc sống. - Câu noí của A.Lincôn, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng giải phóng dân tộc Mỹ, hướng con người ( đặc biệt là thế hệ học sinh) đến sự trung thực trong học tập, thi cử. - Làm một người trung thực, dù bị thi trượt trong thi cử anh ta có thể học lại để có kiến thức thật sự cho mình. - Gian lận trong thi cử giúp anh ta đỗ trong một kỳ thi nào đó nhưng anh ta lại không có kiến thức và đến một lúc nào đó , anh ta sẽ bị đào thải. - Liên hệ và rút ra bài học cho bản thân từ ý nghĩa của câu nói. Tham khảo một bài làm hoàn chỉnh của một học sinh trong kì thi ĐH năm 2009 (bài đạt điểm cao) 1. Mở bài: Một trong những nét đẹp trong phẩm chất của con người từ xưa đến nay vẫn luôn được đề cao, đó là đức tính trung thực. Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, trong khi thi cũng như trong cuộc sống, sự trung thực, không gian dối luôn là một trong những yếu tố tiên quyết để làm nên phẩm chất của một con người, cũng như để đánh giá chính xác con người đó. Trong văn học dân gian từ ngàn xưa, không mấy ai còn xa lạ với những câu ngạn ngữ đề cao sự trung thực như: “Cây ngay không sợ chết đứng”, “khôn ngoan chẳng lọ thật thà” …Vậy nên sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi một người bố, Tổng thống A. Lin-côn, trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, đã viết: “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi…” 2. Thân bài: Xem ra câu nói trên đây của vị Tổng thống thật quá rõ ràng. Tuy nhiên để hiểu một cách chính xác và không sai lệch về vấn đề này, không phải lúc nào cũng dễ. Sự trung thực trong thi cử thật đã quá rõ ràng, nhưng sự trung thực trong cuộc sống liệu có phải lúc nào cũng phải tuân thủ tuyệt đối. Hay nói khác, trong cuộc sống sự trung thực liệu có phải lúc nào cũng tốt? Chúng ta hãy đi sâu tìm hiểu vấn đề này. Trước hết, chúng ta cần phải hiểu sự trung thực nghĩa là gì? Hẳn trong chúng ta không ai lại không biết rằng, trung thực là không gian dối, là ngay thẳng, là lời nói đi đôi với việc làm…Xét từ góc độ ngữ nghĩa, trung thực là một từ gốc Hán được cấu thành bởi hai thành tố: trung và thực (trung là ngay thẳng, thực là thật thà). Cũng có thể giải thích “trung” là một dạ một lòng, dù hoàn cảnh nào cũng không thay đổi (kiên trung) và “thực” là lẽ phải, là cái tồn tại thật, chân lí. Nói tóm lại cả hai yếu tố này đều khẳng định đề cao cái đẹp, cái thiên lương của con người trong cuộc sống. Một con người trung thực là một người luôn nói thật với lòng mình, không dối trá, không thay hình đổi dạng dù cuộc sống có khó khăn đến bao nhiêu… Sự trung thực của con người cũng giống như những thực thể tồn tại của thiên nhiên, như gió mưa và mặt trời, dù êm ả hay dữ dằn, nó vẫn muôn đời diễn ra như thế. Tương tự như vậy, sự gian lận trong thi cử và rộng hơn là trong cuộc sống con người vẫn thường diễn ra ở đó hoặc đây khiến con người không thể không lưu tâm. Cùng một xuất phát điểm như nhau, nhưng có những người kiên trì đi từng bước chậm rãi, khó nhọc vượt qua những chông gai, thử thách để đạt tới thành công, vậy nhưng trong cuộc chạy đua với một kẻ gian dối, họ vẫn là người thua cuộc. Tại sao sự gian lận là điều xấu xa ai ai cũng biết mà nó vẫn có cơ tồn tại trong mọi xã hội và ngay trong cả xã hội ta hiện nay? Có lẽ bởi, trong xã hội của bất cứ thời kì nào, đất nước nào cũng vẫn tồn tại những kẻ lười nhác, ngu dốt…nhưng lại luôn đòi hỏi một cuộc sống hơn người. Câu chuyện Lí Thông cướp công Thạch Sanh trong kho tàng truyện dân gian nước ta phải chăng vẫn luôn là một bài học nóng hổi. Nó là một tấm gương để tất cả mọi người phải biết tự răn mình và phải luôn nêu cao cảnh giác. Bởi lẽ, dù có gian dối, xảo trá bao nhiêu, Lí Thông cuối cùng rồi cũng bị trừng phạt. Người có công Thạch Sanh, cuối cùng vẫn cứ được tri ân. Đó là lí do khiến tôi luôn có niềm tin rằng, dù trong cuộc sống vẫn còn sự gian dối, nhưng “thành công” của việc làm gian dối như thế, sẽ không có cơ sở tồn tại lâu dài. Bởi như danh ngôn có câu “Những gì không phải của mình thì rồi nó cũng sẽ nhanh chóng ra đi”, ánh hào quang có được nhờ vào những việc làm gian dối, sớm muộn rồi cũng sẽ tắt. Bởi ánh hào quang ấy không được đốt lên bằng chính nội lực trái tim của mình… Trở lại lời “cầu xin” của Tổng thống Mĩ A. Lin-côn với thầy hiệu trưởng cho đứa con trai của mình, bản thân tôi là một học sinh đang đi thi, tôi thấy vô cùng thấm thía. Là người đứng đầu một đất nước, Lin-côn không khó khăn gì để trải “tấm thảm hoa” cho đứa con trai của mình, không phải chỉ những năm còn học trong trường, mà cả khi đã trưởng thành trong cuộc sống. Thậm chí ngay cả khi ông không trực tiếp yêu cầu điều đó, ở một nơi, sự trung thực không được đặt ở tiêu chí hàng đầu, những kẻ thiếu trung thực dưới quyền ông cũng có thể sẵn sàng làm điều đó. Chẳng phải vì họ quan tâm đến ông, mà đó là quan tâm đến chính họ. Một người biết nhìn xa trông rộng, biết vì cái đại thể mà quên đi lợi ích của riêng mình, tôi nghĩ rằng không ai lại không đồng cảm với vị Tổng thống Lin-côn. Thêm nữa, biết đâu, vị Tổng thống đáng kính ấy còn suy nghĩ sâu xa hơn, sự vấp ngã trong một kì thi nhỏ, sẽ ngáng chân con trai ông trong trong suốt cả cuộc đời. Trong cuộc đời con người còn có biết bao kì thi, mà không chỉ có những kì thi công khai, có ban giám khảo, phải cạnh tranh với nhiều người, mà còn có cả những kì thi của chỉ riêng một người, kì thi với chính bản thân mình, kì thi của lòng trung thực. Theo tôi hiểu, sự trung thực luôn nên là bài học đầu tiên cho tất cả mọi người ngay cả khi chưa bước chân đến trường. Bởi lẽ, suy cho cùng, so với cả một cuộc đời dài, thì con người ta trải qua thi cử với đúng nghĩa của nó chỉ trong một thời gian ngắn. Vì thế, bài học về sự trung thực vẫn cứ phải luôn được “nằm lòng” trong suốt cả cuộc đời. Trung thực trong cuộc sống là trung thực trong công việc, trong quan hệ với tất cả mọi người xung quanh và với cả chính bản thân mình. Tôi cũng nghĩ, đôi khi ta cũng nên hiểu, sự trung thực trong cuộc sống, giữ được nó thật khó lắm thay. Vì thế, không nên vận dụng nó một cách máy móc. Nhà văn Anh O. Henri trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng kể câu chuỵện một hoạ sĩ vì muốn cứu mạng sống một đứa bé tội nghiệp lâm bệnh nặng đã buộc phải vẽ chiếc lá xanh trên tường, để đánh lừa chiếc lá vẫn còn tươi. Người nghệ sĩ kia đã nói dối đứa bé, nhưng lại “trung thực” với lương tâm của mình, thì rõ ràng hành động cao đẹp của ông là đáng được ca ngợi. Cũng như thế, một người bác sĩ hay người thân của một bệnh nhân đang mang trong mình căn bệnh nan y, trung thực với bệnh nhân hay nói dối anh ta, nên lựa chọn giải pháp nào. Tôi nghĩ rằng, chắc ai cũng sẽ tự tìm cho mình câu trả lời đó. Và đó chính là điều khó khăn trong việc vận dụng sự trung thực của mọi xã hội, chứ không phải riêng ở nước Mĩ, hay ở nước ta. 3. Kết bài Nói tóm lại, trung thực trong thi cử cũng như trong cuộc sống là một đức tính cần được đề cao và ý thức rõ trong mỗi người chúng ta trong xã hội hiện nay. Một xã hội muốn tốt đẹp thì bản thân mỗi người phải là một cá thể đẹp. Để xoá bỏ hoàn toàn “bệnh thành tích”, những gian dối trong thi cử, trong công việc hàng ngày, trong cuộc sống, rất cần sự đấu tranh của số đông người, của tập thể cũng như ý thức tự giác của mỗi cá nhân. Sự thật sẽ luôn là sự thật cho dù nó vẫn luôn là một liều thuốc đắng với tất cả mọi người, kể cả vị Tổng thống Mĩ A. Lin-côn. @/ Đề 7 : Tục ngữ có câu : “Không thầy đố mày làm nên” Anh/ chị hiểu về nội dung của câu tục ngữ trên như thế nào? Từ câu tục ngữ ấy, anh/ chị hãy trình bày về vai trò của người thầy trong xã hội hiện nay. ( bài viết khoảng 400 từ). *Gợi ý Học sinh cần : - Giải thích được nội dung , ý nghĩa của câu tục ngữ. - Khẳng định được vai trò của người thầy trong xã hội : + Nhiệm vụ của người thầy ( người làm nghề dạy học) là dạy để nâng cao trình độ văn hoá và phẩm chất đạo đức theo một chương trình giáo dục nhất định. + Mọi thời đại, đều không thể thiếu sự giáo dục của người thầy về tri thức cũng như về đạo lý…đặc biệt với các cấp họpc phổ thông. + Trong xã hội hiện nay, khi CNTT phát triển, học sinh có thể có thêm nhiều cơ hội tự học; đồng thời sự đổi mới giáo dục làm cho phương pháp dạy và học có nhiều thay đổi, song cũng không vì thế mà làm mất đi vai trò của người thầy. Trong điều kiện ấy, đòi hỏi thầy cô phải có sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo để việc dạy học đạt hiệu quả hơn.Người học cũng chính vì thế mà rất cần sự định hướng của người thầy. @/Đề 8: Trình bày bằng một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) suy nghĩ của anh/chị về bệnh thành tích- một căn bệnh gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay. * Gợi ý Học sinh cần nêu được các ý : - Thế nào là bệnh thành tích? - Tác hại của căn bệnh thành tích : + Đó là căn bệnh nguy hiểm, có tác hại ghê gớm ( nhất là đối với ngành giáo dục). + Nó làm cho con người dễ tiến đến thói kiêu ngạo, hợm hĩnh, khoe khoang nhưng rỗng tuếch. ( Cần kết hợp các thao tác lập luận phân tích, chứng minh và bình luận để làm rõ tác hại của căn bệnh này ) - Đề xuất cách khắc phục và hướng tu dưỡng phấn đấu để hoàn thiện mình. @/ Đề 9: Trong truyện ngắn “Đời thừa”, Nam Cao để cho nhân vật Hộ bộc lộ suy gẫm: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình”. Ý kiến của anh - chị ? ĐỊNH HƯỚNG Đề yêu cầu kiểm tra kiến thức xã hội của học sinh trong quan hệ ứng xử, khơi gợi lòng nhân ái về cách sống ở đời. Học sinh có thể đưa ra nhiều cách suy nghĩ, nhận định, bình giải về câu nói của Nam Cao và bày tỏ quan niệm sống, cách ứng xử của cá nhân (không yêu cầu nói về tác giả và tác phẩm Đời thừa), tựu trung cần đạt được những nội dung cơ bản sau: I/ Mở bài : - Trong truyện ngắn “Đời thừa”, Nam Cao để cho nhân vật Hộ bộc lộ suy gẫm: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình”. - Phải chăng qua sự suy gẫm trên của Hộ, chúng ta cùng trao đổi và hiểu như thế nào về quan niệm, cách ứng xử của con người trong cuộc sống hiện nay. II/ Thân bài : 1/ Giai thích, phân tích và chứng minh nội dung suy gẫm của nhận vật Hộ : a/ “Kẻ mạnh” là gì?Tại sao lại nói : “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ”? - Kẻ mạnh là kẻ có đầy đủ điều kiện vật chất và tinh thần..... - Trong cuộc sống, cũng lắm kẻ “ích kỷ”, chỉ biết lo cho chính mình, cố tạo uy thế (sức mạnh) cho cá nhân nhằm đạt đến những ham muốn quyền lợi riêng tư như về địa vị, chức vụ, vật chất, ... không quan tâm đến bất cứ ai quanh mình. Để tạo quyền lực cho bản thân, lắm kẻ dùng nhiều thủ đoạn thô bạo, đê tiện như: chèn ép, trù dập, chà đạp lên quyền lợi của người khác, gây bè phái nhằm hạ bệ lẫn nhau, “giẫm lên vai người khác” để ngoi lên, nhằm “thỏa mãn lòng ích kỷ”. Nam Cao phủ nhận cách sống ấy, xem những kẻ tạo sức mạnh cho mình bằng con đường như thế không phải là kẻ mạnh của một con người, xem đó là những kẻ không có tính người. b/ Quan niệm của Nam Cao: “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình”. Nghĩa là: - Kẻ mạnh trước tiên là kẻ có tình người, biết quan tâm, chỉa sẻ, nghĩ đến người khác, biết tương trợ, nâng đỡ những người khi gặp khó khăn, hoạn nạn ... bằng khả năng có được của chính bản thân một cách chân thành, trân trọng, xem đó còn là trách nhiệm (trên đôi vai của mình). - Kẻ mạnh ở đây còn có nghĩa là vẻ đẹp về sức mạnh tinh thần, giàu lòng nhân ái, biết yêu thương đồng loại, biết làm những nghĩa cử cao cả đem lại lợi ích cho kẻ khác, như thế mới là con người. 2. Ý nghĩa câu nói của Nam Cao và rút ra cho bản thân một cách sống đẹp. - Phê phán quan niệm và lối sống ích kỷ . thủ đoạn ... - Khơi gợi lòng nhân ái về cách sống cao cả và chân chính, không vụ lợi ...cho riêng mình... đó là cách sống đẹp “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. III/ Kết bài : - Tóm lược , khẳng định ý nghĩa của câu nói. - Bài học liên hệ bản thân và mọi người : không dùng thủ đoạn để đạt mục đích mà làm hại đến người khác.Phải nhận thức đúng về lẽ sống... ------------------------------------------------------- @/ ĐỀ 10: Mara nói: “Người ta có vẻ lớn đối với chúng ta, bởi vì chúng ta quỳ. Chúng ta hãy đứng lên !”. Ý kiến của anh, chị về câu nói trên ? ĐỊNH HƯỚNG Học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách để bộc lộ vốn kiến thức của mình về một vấn đề xã hội – về kĩ năng sống ; nhưng bài viết cần phải làm sáng tỏ những nội dung cơ bản sau: I/ Mở bài : - Bàn về nhận thức, thái độ, hành động sống sao cho có ý nghĩa của mỗi người trong cuộc đời, Mara có câu: “Người ta có vẻ lớn đối với chúng ta, bởi vì chúng ta quỳ. Chúng ta hãy đứng lên !”. - Với câu nói trên , Mara đã phê phán lối sống tự ti, hèn hạ của một số đông thanh niên hiện nay, từ đó tác giả cất lời động viên, kêu gọi mọi người hãy tự khẳng định mình bằng một lối sống mạnh mẽ, bản lĩnh … II/ Thân bài : 1. Giai thích làm rõ nội dung câu nói của Mara : a. Ý thứ nhất: : “Người ta có vẻ lớn" và “vì chúng ta quỳ”. - Chữ “lớn” và chữ “quỳ” ở đây không có ý nói về vóc dáng, hành động bên ngoài, mà nói về tư cách, vị thế của những con người đó. - Chữ “quỳ” nên hiểu: Là tự hạ mình, tự ti, thiếu niềm tin vào khả năng của chính bản thân trước người khác, thậm chí hèn nhát không dám thể hiện đúng thực lực bản thân. b. Ý thứ hai: Lời khuyên, lời kêu gọi của Mara : “Chúng ta hãy đứng lên”. Chữ “đứng lên” ở đây là nhằm nói đến sự tự khẳng định bằng ý chí, nghị lực, niềm tin để vươn lên 2. Phân tích, c/m những biểu hiện,nguyên nhân của lối sống “quỳ” : - Biểu hiện : + Đó là lối sống ươn hèn, ỉ lại, lười biếng…trong học tập và trong cuộc sống( c/m) + Đó là lối sống tự ti , không tin vào chính mình…( d/c) - Nguyên nhân: khiến bản thân thua kém người khác (như về địa vị, chức vụ, kinh tế hay về một năng lực nào đó v.v…) là do chính bản thân chúng ta đã tự hạ mình, thiếu cố gắng, không có tinh thần vượt khó nên mới thấy người khác vượt trội hơn ta. 3. Bính luận ý nghĩa câu nói của Mara : - Khẳng định tư cách, ý chí, nghị lực vượt qua những khó khăn thử thách của mỗi con người trong mối quan hệ cuộc sống.Tài năng của con người được tạo bởi nhiều yếu tố: + Yếu tố bẩm sinh (thiên phú), nhưng thiên phú mà không biết cách phát huy thì tài năng kia cũng mai một, lụi tàn. + Ýếu tố tự rèn là yếu tố quan trọng để đi đến thành công. Để thấy mình không thấp hơn người khác, bản thân phải có sự lao động chăm chỉ, cần cù, không chùn bước trước gian nguy, phải biết tự tin vào chính bản thân trên bước đường đời. - Là lời động viên, kêu gọi lòng tự tin vào ý chí, năng lực để thể hiện thái độ, tư cách, vị trí của chính mình trong mối quan hệ cộng đồng, khác với tự kiêu, tự phụ, hống hách. “Đứng lên” không phải bằng cách chèn ép, bôi nhọ, chà đạp người khác để được đứng lên trên nhằm thỏa mãn lòng ích kỷ cá nhân. - Mở rộng ra là vấn đề dân tộc, đất nước trong mối tương quan quốc tế. III/ Kết bài : - Tóm lược... - Bài học hành động cho bản thân và cho mỗi người. @/ĐỀ 11: “Người ta thường nói văn học là nhân học. Tôi công nhận. Nhưng với riêng tôi, văn học không chỉ là môn khoa học về con người. Cái cốt lõi của nó là lòng nhân ái”. (Rasul Gamzatop – Theo báo Văn nghệ số 45 ngày 5/11/2011). Ý kiến của anh – chị về quan niệm trên. ĐỊNH HƯỚNG Yêu cầu học sinh hiểu được ý nghĩa văn học là nhân học và lòng nhân ái trong văn học, cần làm rõ các nội dung cơ bản sau: I/ Mở bài - Rasul Gamzatop : “Người ta thường nói văn học là nhân học. Tôi công nhận. Nhưng với riêng tôi, văn học không chỉ là môn khoa học về con người. Cái cốt lõi của nó là lòng nhân ái”. - Câu nói trên của Rasul Gamzatop đã khẳng định ý nghĩa văn học là nhân học và lòng nhân ái trong văn học... II/ Thân bài : 1. Giai thích làm rõ nội dung câu nói : a.Vì sao lại nói : Văn học là nhân học : nếu dừng lại ở từ “nhân học” có nghĩa văn học là môn khoa học về con người. Môn khoa học về con người thì đòi hỏi tính chân lí khách quan. Điều đó không sai. Nghĩa là nhà văn miêu tả, phân tích, khám phá, phát hiện các mặt về đời sống con người từ sinh lí đến tâm linh ở góc độ khách quan một cách chân thực. b.Vì sao lại nói : văn học không chỉ là môn khoa học về con người. Cái cốt lõi của nó là lòng nhân ái”? - Rasul Gamzatop không phủ nhận điều đó, nhưng nếu chỉ dừng lại ở một môn khoa học khám phá về con người là chưa đủ. Ông bổ sung và khẳng định rằng cái cốt lõi của văn học là lòng nhân ái. Bởi lẽ : ngoài việc miêu tả, phân tích, khám phá về con người,… nhà văn còn phải sử dụng ngòi bút thể hiện lòng thương người, phải biết đau với cái đau của cuộc đời, của nhân loại, của thời đại, biết lên án cái ác, ngợi ca cái thiện, phê phán cái xấu, biểu dương cái đẹp, biết nâng niu bảo vệ sự sống, quý trọng, tôn vinh nhân cách và phẩm giá con người. 2.. Phân tích, chứng minh những biểu hiện của lòng nhân ái trong văn học xưa và nay : Dựa vào kiến thức đã học trong chương trình (như về Nguyễn Du, Nam Cao, Hồ Chí Minh (Nhật ký trong tù), Thạch Lam, Kim Lân, Banzac, Victor Hugo, Sôlôkhôp…), cũng như kiến thức về tác phẩm văn học đọc thêm ngoài chương trình để dẫn chứng, phân tích, chứng minh làm rõ: a. Những tác phẩm có giá trị về nội dung tư tưởng lớn và nghệ thuật cao được công nhận và sống với thời gian là những tác phẩm (dù khai thác ở góc độ nào đi nữa) vẫn thể hiện ở đó lòng yêu mến, đồng cảm, sẻ chia của nhà văn đối với con người. b. Ngược lại, cũng có những nhà văn có năng lực, nhưng khám phá, khai thác con người ở góc độ trần tục, thấp hèn, nhầy nhụa, hoặc thông qua lăng kính chủ quan áp đặt làm cho hình ảnh con người trở nên trần trụi, méo mó,… thiếu tình người, không mang tính nhân văn, tác động xấu đến nhận thức, tâm hồn người đọc.., đều bị phê phán, lên án. 3.Bình luận Ý nghĩa của câu nói : - Câu nói của Rasul Gamzatop đã khẳng định để làm rõ thêm về quan niệm: “Văn học không chỉ là môn khoa học về con người. Cái cốt lõi của nó là lòng nhân ái” là có cơ sở. - Từ đó , câu nói làm rõ thêm chức năng , nhiệm vụ của văn học với con người và đời sống. III/ Kết bài : - Tóm lược nội dung đã nghị luận. - Thấy được vai trò và ý nghĩa của văn học với đời sống …và trách nhiệm của nhà văn… *Lưu ý: Ở nội dung 1, chỉ yêu cầu học sinh nêu rõ “văn học là nhân học” mà “nhân học” là một môn khoa học về con người, không yêu cầu chứng minh. Nội dung 2 và 3, không yêu cầu phải tách ra từng phần như trong đáp án, học sinh chỉ cần nêu ra luận điểm rồi phân tích chứng minh cho từng luận điểm là chấp thuận. @/ĐỀ 12: Những người bạn giả dối giống như những chiếc bóng: chúng theo gót ta ra ngoài nắng ấm, và rời bỏ ta ngay khi ta bước vào bóng râm. (C. Bôvi) Ý kiến của anh – chị ? ĐỊNH HƯỚNG Đề yêu cầu kiểm tra kiến thức xã hội của học sinh trong quan hệ ứng xử, tình bạn, tình người, về cách sống ở đời. Học sinh có thể đưa ra nhiều cách suy nghĩ, nhận định, bình giải về câu nói của Bôvi và bày tỏ cách nhìn nhận, đánh giá, ứng xử và rút ra bài học cho bản thân, nhưng tựu trung cần đạt được những nội dung cơ bản sau: I/ Mở bài : - Bàn về thái độ và cách ứng xử trong tình bạn...C.Bovi có câu : Những người bạn giả dối giống như những chiếc bóng: chúng theo gót ta ra ngoài nắng ấm, và rời bỏ ta ngay khi ta bước vào bóng râm. - Câu nói của Bovi phải chăng đã phê phán bản chất của những kẻ cơ hội, thiếu nhân cách trong tình bạn của một số người đang diễn ra trong cuộc sống hiện nay. II/ Thân bài : 1.Giai thích làm rõ nội dung của câu nói : a. “Giả dối” là không chân thực, nhằm mục đích đánh lừa. “Những người bạn giả dối” là những người sống với bạn không thật lòng, chỉ dựa trên danh nghĩa tình bạn để lợi dụng bạn nhằm thực hiện những mưu đồ lợi ích riêng tư cho chính bản thân. b. ..iống như những chiếc bóng: chúng theo gót ta ra ngoài nắng ấm, và rời bỏ ta ngay khi ta bước vào bóng râm. - tường minh : khi ta ra ngoài nắng ấm thì chiếc bóng luôn luôn xuất hiện ở bên cạnh ta; khi ta vào trong bóng râm , phản chiếu của ánh nắng không còn thì bóng ta sẽ mất đi. Đó là một hiện tượng vật lý khách quan mang tính tất yếu. - Hàm ý “nắng ấm” có thể hiểu đó là khi ta có cuộc sống có thể là thành đạt, khá giả, sung túc, vinh quang… thì lúc ấy “những người bạn giả dối” bám theo ta để nương tựa, nhờ đỡ, lợi dụng ta vì lợi ích nào đó cho chính bản thân. Ngược lại bóng râm có thể hiểu đó là lúc ta rơi vào cảnh thất cơ, lỡ vận, khó khăn, hoạn nạn,… thì sự giả dối ấy của họ tất yếu hiện hình, lộ rõ, rời bỏ ta vì biết rằng bám theo ta cũng không có thêm được lợi ích gì. 2.Phân tích, chứng minh những biểu hiện của sự giả dối : - Trong học tập… - Trong cuộc sống… 3.. Bình luận mở rộng về tình bạn và ý nghĩa câu nói của Bôvi. a. Tình bạn hiểu đúng nghĩa là người quen biết, có quan hệ gần gũi, do hợp tình, hợp ý, cùng chí hướng … là sự kết nối tình cảm thiêng liêng, tạo nên sự gắn bó mật thiết, để nương tựa giúp đỡ cho nhau cùng tiến bộ, cùng nhau tâm tình chia sẻ những nỗi niềm khi vui cũng như khi buồn, giúp nhau để vượt qua những lúc hiểm nghèo, khó khăn, hoạn nạn… b. Câu nói của Bôvi là nhằm lên án, phê phán bản chất của những kẻ cơ hội, đó không phải là tình bạn chân chính, mà là những con người dựa trên danh nghĩa tình bạn để lợi dụng cho cá nhân một cách thấp hèn, ích kỉ, không có nhân cách. Qua đó vừa cảnh báo về cách chọn bạn để sống, vừa nhắn nhủ với người đời hiểu đúng về tình bạn và sống với bạn cho ra nhân cách con người. (Khi liên hệ mở rộng, học sinh cũng có thể đưa ra ví dụ như những người trước đây đang có quyền chức thì bao nhiêu người xum xoe gần gũi, nhưng khi về nghỉ hưu – cái ánh nắng sáng lên quyền lực ấy không còn thì chẳng mấy kẻ đến thăm, … đều được chấp) III/Kết bài : - Tóm lược nội dung…. - Bài học cho việc xây dựng tình bạn chân chính. ----------------------------------- @/ ĐỀ13: Bersot nói: “Trong vũ trụ có lắm kỳ quan, nhưng kỳ quan đẹp nhất là trái tim của người mẹ”. Ý kiến của anh/chị về câu nói trên? ĐỊNH HƯỚNG Đề yêu cầu bình luận về một vấn đề đạo lý – đó là tình cảm thiêng liêng nơi trái tim người mẹ. Học sinh có thể cảm nhận và trình bày nhiều cách khác nhau, nhưng yêu cầu phải nêu cho được những ý cơ bản sau: I/ Mở bài : - Bàn về vẻ đẹp của tình mẫu tử, Bersot nói: “Trong vũ trụ có lắm kỳ quan, nhưng kỳ quan đẹp nhất là trái tim của người mẹ”. - Câu nói của Bersot đã ca ngợi và khẳng định tình cảm thiêng liêng trong trái tim của người mẹ dành cho con trong cuộc đời. II/ Thân bài : 1. Giai thích nội dung câu nói của Bersot: - Hiểu nghĩa của kỳ quan (có thể là một công trình kiến trúc hoặc cảnh vật) đẹp đến mức kỳ diệu hiếm thấy. - Bersot nói: “Trong vũ trụ có lắm kỳ quan” có nghĩa cái đẹp đến mức kỳ diệu hiếm thấy (ở những công trình kiến trúc hay cảnh vật tự nhiên) là không ít, nhưng kỳ quan tuyệt hảo nhất là trái tim người mẹ. Nội dung chính của câu trên là nhằm nói về trái tim người mẹ: kỳ quan tuyệt hảo nhất. 2. Phân tích , chứng minh để thấy được vẻ đẹp tuyệt hảo và thiêng liêng của tình mẹ: Trái tim người mẹ ở đây là tình cảm của mẹ dành cho con. Đó là tình yêu thiêng liêng nhất không gì có thể sánh được (học sinh có thể liên hệ với thực tế để nói về đức hi sinh của mẹ suốt đời cho con). - Mang nặng đẻ đau… - Chăm nuôi con khôn lớn… - Gần gũi chia sẻ những buồn vui với con … - Lo lắng, dõi theo con từng bước trong cuộc đời.. Hy sinh cho con tất cả mà không hề tính toán… 3.Bình luận : - Trong thực tế , người mẹ nào cũng luôn yêu thương con mình.Bởi lẽ, những đứa con chính là món quà vô giá mà Thượng đế ban tặng cho họ.Nhưng không phải người con nào cũng hiểu được sự thiêng liêng vô giá từ tình thương của mẹ . - Tuy nhiên, trong thực tế cũng có những bà mẹ bỏ rơi con cái của mình từ khi mới sinh ra, hoặc vì một ham muốn tầm thường, thấp kém nào đó mà lợi dụng con cái của mình – nhưng đó là hiện tượng cá biệt cần phê phán. - Câu nói của Bersot là lời khẳng định và ngợi ca, tôn vinh sự cao đẹp của tình mẹ. Thức tỉnh những người làm con nào còn vô tâm, bất hiếu với bậc sinh thành ra mình… III/ Kết bài : - Đây là một câu nói hay, sâu sắc và ý nghĩa…về đạo lý ở đời của tất cả những ai là con trên thế gian này với người mẹ của mình. - Chúng ta cần phải có những suy nghĩ, tình cảm, trách nhiệm đúng mực của mình để đáp lại tình cảm thiêng liêng của mẹ đã dành cho con. @/ Đề 14 : Các bạn học sinh lớp 12 khi được hỏi “sẽ chọn nghề gì để làm hồ sơ dự thi vào các trường đại học?”, có bạn trả lời: “Mình sẽ chọn nghề mà sau này có thể kiếm được thật nhiều tiền”, bạn khác lại cho rằng: “Sẽ chọn nghề mà mình yêu thích”. Anh/chị có suy nghĩ gì trước những ý kiến trên? Hãy trình bày quan điểm của mình bằng một bài văn ngắn. ĐỊNH HƯỚNG LÀM BÀI 1) Giới thiệu khái quát vấn đề nghị luận. Khẳng định tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh cuối cấp: Quyết định đến tương lai,hạnh phúc của bản thân, ảnh hưởng tới cả gia đình và xã hội. 0.5đ 2) Bàn luận về những quan điểm chọn nghề của học sinh lớp 12 - Thanh niên, học sinh ngày nay có rất nhiều quan niệm về việc lựa chọn nghề nghiệp, thậm chí có những quan niệm đối lập nhau. Việc đó tưởng chừng đơn giản, nhưng thực ra lại rất quan trọng bởi nó thể hiện quan điểm sống, lí tưởng sống của tuổi trẻ. 0.5đ - Bàn luận về tính hai mặt của những quan niệm chọn nghề nêu trên: a) Chọn nghề kiếm ra thật nhiều tiền: 0.5đ + Tiền rất quan trọng trong cuộc sống mỗi con người: Thỏa mãn nhu cầu cá nhân, tạo lập hạnh phúc, giải quyết công việc, giúp đỡ người thân, góp phần xây dựng đất nước… Mọi nghề nghiệp suy cho cùng cũng là kiếm tiền để phục vụ cuộc sống. + Tuy nhiên, tiền không phải là tất cả, có nhiều thứ không thể mua bằng tiền như: Danh dự, uy tín, hạnh phúc, lòng nhân ái …Do vậy, chọn nghề chỉ với mục đích kiếm tiền con người sẽ trở nên thực dụng, toan tính, cơ hội. Hơn nữa, nghề nghiệp đó mà bản thân không có khả năng, hoặc không yêu thích nó, thì sẽ khó thoát khỏi áp lực, trở thành gánh nặng suốt đời. b) Chọn nghề mình yêu thích: 0.5đ + Sẽ có nhiều hứng thú, niềm vui và sự say mê, sáng tạo trong công việc; hiệu quả công việc rõ rệt, thỏa mãn nhu cầu cá nhân. + Tuy nhiên, cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu cá nhân ngày một nâng cao, nếu chỉ chú ý đến yêu thích mà không chú ý đến thu nhập và khả năng của bản thân thì sẽ khó duy trì được tình yêu đối với nghề nghiệp của mình. Mỗi ý cần có dẫn chứng minh họa hòa lồng với lí lẽ) 3) Quan điểm chọn nghề của bản thân. 1.0đ - Quan tâm đến sở thích cá nhân và mức thu nhập sau khi được nhận việc. (kết hợp cả hai quan niệm trên) - Cần phải căn cứ vào năng lực bản thân, hoàn cảnh gia đình, nhu cầu của xã hội đối với ngành nghề đó…khắc phục tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. - Chọn nghề theo yêu cầu của quê hương, đất nước. Tâm huyết với những nghề nghiệp hữu ích với gia đình, quê hương…, ta sẽ tìm thấy niềm vui, sự hứng thú và lợi ích thiết thực; ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. ĐỀ 15: Trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, tác giả Lưu Quang Vũ đã để nhân vật Trương Ba bày tỏ quan niệm sống của mình là: “Không thể bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo được”. Anh chị suy nghĩ như thế nào về quan niệm trên? DÀN Ý THAM KHẢO I. Mở bài: - Cuộc sống thật phong phú, đa dạng, phức tạp, chúng ta luôn tự hỏi: Sống thế nào cho đúng? Làm thế nào để có một cuộc sống đẹp? Hãy sống là chính mình, trung thực, chân thật, thẳng thắn, không giả dối và giàu lòng nhân ái. - Trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang đã để nhân vật Trương Ba bày tỏ quan niệm sống của mình là: “Không thể bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo được”. II. Thân bài: 1. Giải thích ý nghĩa câu nói: - “Bên trong”: Là thế giới nội tâm của con người (gồm nhận thức, tư tưởng, khát vọng). Đây là phần làm nên ý thức, chất người cao quý trong con người. Nếu thế giới bên trong đạt được sự toàn vẹn, hoàn thiện, con người sẽ có được những phẩm chất tốt đẹp, quý giá, sống một đời sống tinh thần phong phú, sâu sắc. Đây là phần mà người ta không nhìn thấy được chủ có thể cảm nhận qua tiếp xúc, tìm hiểu và gắn bó. - “Bên ngoài”: là cái có thể quan sát, nhận biết bằng thị giác (gồm hình thức, hành vi, lời nói, việc làm). => Quan hệ giữa bên ngoài và bên trong: Thường là quan hệ thống nhất – cái bên ngoài là biểu hiện cụ thể của cái bên trong và ngược lại, cái bên ngoài cũng được cái bên trong quy định, chi phối. - “Bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”: Không có sự hài hòa, thống nhất của bên ngoài và bên trong, tức là lời nói, việc làm không thống nhất với suy nghĩ, tình cảm, nhận thức. Sự không thống nhất này khiến con người rơi vào tình trạng sống giả tạo, trở nên lệch lạc, mất thăng bằng. Dù ở trường hợp nào cũng đều là bi kịch. - Ý nghĩa câu nói của Trương Ba: Thể hiện một quan niệm sống đúng đắn: Cần phấn đấu để đạt sự hài hòa, cân bằng giữa nhận thức, hành vi, giữa cái bên trong với cái bên ngoài. Mỗi người hãy sống là mình, luôn làm chủ bản thân cả về thể xác lẫn tìn thần. Đó là cách sống để con người đạt được sự thanh thản. 2. Phân tích, chứng minh ý nghĩa câu nói: a.Thực tế cuộc sống của Trương Ba: - Bên trong: Gắn liền với phần hồn Trương Ba- một người làm vườn chăm chỉ, cần cù, tinh tế đã nâng niu chăm sóc vườn cây, một con người mẫu mực, sống đạo đức và giàu tình nghĩa với vợ con, với cháu nội, với láng giềng xung quanh. Đó là những phẩm chất quý giá khiến Trương Ba được mọi người nể trọng, quý mến. - Bên ngoài: Gắn liền với xác hàng thịt – một con người thô bạo, tham lam, coi trọng sự hưởng thụ vật chất. - Vì một sự nhầm lẫn nên cả hai con người này đã bị đẩy vào một tình huống éo le: hồn Trương Ba phải sống nhờ trong xác anh hàng thịt. Vấn đề là ở chỗ: hồn Trương Ba vẫn có những nhu cầu về tinh thần song lại không thể điều khiển xác anh hàng thịt- tuy chỉ là xác thịt âm u đui mù song vẫn có tiếng nói riêng, vẫn đòi hỏi được thỏa mãn nhu cầu về vật chất. Cả nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần đều tự nhiên, chính đáng song trong trường hợp này lại trở nên mâu thuẫn, không thể tồn tại. - Kết quả: Trong sự xung đột, nhu cầu thể xác lại có phần thắng thế và cái thể xác phàm tục kia lại có thể lên tiếng nhạo báng nhu cầu cao quý của linh hồn. Đây là một điều phi lí và đau lòng bởi phần xác đã xúc phạm, đã làm tổn thương đến phần hồn. b. Trong cuộc sống con người hiện nay: - Ở một số người có sự hòa hợp giữa bên trong và bên ngoài. Đó là khi cái bên trong – đời sống tinh thần – thật sự mạnh mẽ để tạo thành một bản lĩnh sống, bản lĩnh văn hóa để có thể chi phối, điều khiển lời nói, việc làm để cái bên ngoài thật sự là sự biểu hiện của cái bên trong. Khi ấy, con người được sống là mình, con người khẳng định được cái tôi của bản thân, đồng thời cũng tạo cho mình một khả năng để chinh phục, thu hút người khác, tức là không chỉ sống tốt mà còn được mọi người yêu mến. - Có một bộ phận không nhỏ những người không tạo được sự hài hòa giữa bên ngoài và bên trong: + Bên trong tốt đẹp, có nhân tính, có lương tâm, có khả năng nhận thức, hiểu biết nhưng không thắng được hoàn cảnh, bị hoàn cảnh xô đẩy đến chỗ có những hành vi trái với lương tâm, trái với chuẩn mực đạo đức. Đó là trường hợp con người phải sống kệch lạc, mất thăng bằng. + Bên trong kém cỏi, tầm thường song ở vào vị trí buộc mình phải tỏ ra có đạo đức, có hiểu biết, có tình cảm cao thượng. Đó là trường hợp con người phải sống giả tạo. 3. Đánh giá, bàn bạc: - Mỗi người cần trang bị cho mình nhận thức, hiểu biết để có thể phân biệt đúng – sai, rèn luyện bản lĩnh để có thể tự kiểm soát mọi hành vi, để không chạy theo dục vọng tầm thường, không sa đà vào lối sống buông tuồng, dung tục. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến bản thân mình, quan tâm đến những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng dù là bình thường nhất để được sống một cách thoải mái, tự nhiên. - Phương châm sống đúng đắn: Cố gắng tìm sự hài hòa giữa nhu cầu về tinh thần và nhu cầu về vật chất để tạo nên một cuộc sống cân bằng và nghiêm túc với bản thân mình, tạo cho mình quyền được hạnh phúc. III. Kết bài: - Cuộc sống đầy những khó khăn, phức tạp, đầy những cám dỗ, có khi người ta mắc phải những sai lầm, vấp ngã. Hãy dũng cảm đối diện với sự thật để vươn lên. Hãy trung thực, thẳng thắn với bản thân, không “nói một đằng làm một nẻo”, giả dối với mọi người và chính mình. Hãy luôn cảnh giác với “kẻ thù của chính mình”, vượt qua nó để chiến thắng hoàn cảnh, sống là mình. @/ Đề 16: Trong bài hát Một đời người, một rừng cây của nhạc sĩ Trần Long Ẩn có đoạn: “ Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai Ai cũng một thời trẻ trai, cũng từng nghĩ về đời mình Phải đâu may nhờ rủi chịu, phải đâu trong đục cũng đành. Phải không em?... Phải không em?” Anh/ chị suy nghĩ gì về ý nghĩa của lời hát trên? DÀN Ý THAM KHẢO 1. Giải thích: - Ý nghĩa lời bài hát: Lời nhắn nhủ tha thiết về một quan niệm sống tích cực: sống vì mọi người, sống có trách nhiệm, không lẩn tránh, biết gánh vác, không buông trôi, phó mặc số phận, sẵn sàng đương đầu, vượt lên mọi thử thách, không cam chịu, an phận thủ thường… 2. Phân tích- chứng minh: Ý 1: Phải biết sống vì mọi người: - Trong cuộc sống, có những con người luôn biết sống vì người khác, không ngại khó, ngại khổ, biết vì lợi ích của cộng đồng, biết vì mọi người, sống có trách nhiệm… - Đó là những con người có nhân cách cao quý, có cuộc sống đáng trân trọng. * Dẫn chứng: - Hồ Chí Minh cả đời đấu tranh cho dân tộc… - Louis Pasteur vì sự sống con người, sẵn sàng thí nghiệm vắc xin chống dại ngay trên cơ thể chính mình… - anh Nguyễn Văn Trỗi sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân vì lợi ích cách mạng tham gia trận đánh quan trọng đặt mìn cầu Công Lý giết tên Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Mắc- na - ma – ra bởi anh cho rằng: “ Còn thằng Mĩ không ai hạnh phúc nổi cả…” - Đặng Thùy Trâm từ giã Hà Nội vào nơi ác liệt của chiến trường…; - Thời bình : những chiến sĩ Trường Sa, nhân vật anh thanh niên tình nguyện trong các chiến dịch “Mùa hè xanh”… Ý 2: Đừng sống như những kẻ sống ích kỉ, vụ lợi, cơ hội - Bên cạnh đó cũng có những con người luôn sống vị kỉ, cá nhân, nhỏ nhen, luôn tránh né, đùn đẩy khó khăn cho người khác, sống vụ lợi, lợi dụng sự giúp đỡ của người khác để thu vén cho bản thân… - Lối sống đó rồi sẽ bị xã hội đào thải. * Dẫn chứng: loại người Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau…; những kẻ cơ hội, đục nước béo cò; đó là một số thanh niên chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ, thõa mãn những thú vui tầm thường trụy lạc như đua xe bất chấp gieo tai họa cho người khác, đốt thời gian, sức khỏe, tiền bạc nơi vũ trường, , luôn đòi hỏi ở người khác vì mình, vô trách nhiệm với gia đình, xã hội và cả với bản thân… Ý 3: Cũng không nên sống mờ nhạt, yếu đuối, cam chịu - Và cũng có những con người sống yếu đuối, thụ động, cam chịu, luôn đổ lỗi cho số phận, đầu hàng những thử thách khó khăn, không đủ ý chí và nghị lực, chỉ biết bi lụy, cúi đầu trước nghịch cảnh… * Dẫn chứng: những kẻ sa ngã, trượt dài trong tha hóa và phạm tội lại đổ lỗi cho hoàn cảnh, số phận… 3. Bình luận: * Đánh giá: - Lời bài hát là những lời nhắn nhủ thiết tha gởi đến mọi người, nhất là đối với lớp trẻ, một thông điệp về sống đẹp đầy sức thuyết phục. Nó chứa đựng một quan niệm nhân sinh tích cực, đáng để cho mỗi chúng ta xem như kim chỉ nam trong rèn luyện và tu dưỡng bản thân để có một cuộc sống chân chính. * Phê phán: - Từ quan niệm sống đẹp đó phê phán lối sống ích kỉ, nhỏ nhen, vô trách nhiệm, vụ lợi, sống an phận, thụ động, yếu hèn. 4. Bài học: * Nhận thức: - Hiểu rằng cuộc sống chỉ thật sự có ý nghĩa, nhân cách con người sẽ thật sự cao quý khi biết chọn cho mình lối sống đẹp và cao quý, cự tuyệt lối sống tầm thường, thấp hèn. - Liên hệ : Nếu là con chim, chiếc lá Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không có trả Sống là cho, đâu phải nhận riêng mình. ( Tố Hữu) * Hành động: - Để có thể sống đẹp như lời bài hát gợi ý, thanh niên cần sống có lí tưởng cao đẹp, có ý thức bồi dưỡng lòng nhân ái, vị tha, phải học tập, rèn luyện bản thân ý chí, nghị lực, những năng lực và kĩ năng sống, phải năng động, sáng tạo, sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội. II/ Một số đề luyện tập: @/ Đề 1: “Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào nhoáng”. Từ ý kiến trên, anh/ chị hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của mình về sự nguy hại của đạo đức giả đối với con người và cuộc sống @/ Đề 2 : Diễn giả nổi tiếng Nick Vujicic – chàng trai khuyết tật kỳ diệu nhất thế giới đã từng nói:“Nếu tôi thất bại tôi sẽ thử làm lại, làm lại và làm lại nữa. Nếu bạn thất bại, bạn sẽ cố làm lại chứ ? Tinh thần con người có thể chịu đựng được những điều tệ hơn là chúng ta tưởng. Điều quan trọng là cách bạn đến đích. Bạn sẽ cán đích một cách mạnh mẽ chứ ?” Anh, chị sẽ đối thoại với Nick như thế nào? Hãy trình bày quan điểm của mình bằng một bài văn nghị luận khoảng 02 trang giấy. @/ Đề 3: Viết một bài văn ngắn bày tỏ suy nghĩ của anh/ chị về tấm gương “Người tốt việc tốt” của em học sinh Bùi Duy Nhất từ thông tin sau: Cuối tháng 11, em Bùi Duy Nhất (học sinh lớp 6C, trường THCS Đoàn Lập, Tiên Lãng, Hải Phòng) trên đường đi học về nhặt được chiếc ví màu đen có 30 triệu đồng. Hy vọng người đánh rơi quay lại tìm, cậu học trò đứng chờ gần 2 tiếng ở chỗ ví rơi để trả lại, nhưng không thấy ai. Về nhà, Nhất kể cho bố mẹ nghe chuyện nhặt được ví. Lần theo địa chỉ trên giấy tờ, bố mẹ đưa cậu bé tìm tới nhà anh Trần Ngọc Tín, người cùng huyện Tiên Lãng để trả lại ví tiền. Hành động của cậu học trò khiến nhiều người phải suy nghĩ. (Theo báo điện tử Vnexpress) @/ Đề 3 :“ Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo đuổi? Phải chăng, đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến từng chi tiết? Hay đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một cuộc sống giàu sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy dành chút thời gian để lặng mình suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người đạt được thành công theo một cách giản dị đến bất ngờ….” (Theo nguồn Internet) Từ vấn đề trên, em hãy nêu suy nghĩ của mình về sự thành công giản dị trong cuộc sống. @/ Đề 4 : “Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kĩ sư, nếu làm tròn trách nhiệm thì đều vẻ vang như nhau” (Hồ Chí Minh). Hãy viết một văn bản (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên. @/ Đề 5 :Có một nhà xã hội học trong khi đi tìm hiểu thực tế cho đề tài của mình sắp viết thì gặp một trường hợp khá thú vị. Đó là : Anh A và anh B đều có một người cha nghiện ngập và vũ phu. Sau này A trở thành một chàng trai đi đầu trong công tác chống nghiện ngập và bạo lực gia đình còn B lại trở thành một phiên bản khác của cha anh. Nhà xã hội học cùng đặt một câu hỏi cho cả hai người: “ Điều gì khiến anh trở nên như thế ?” Ông nhận được cùng một câu trả lời: “Có một người cha như thế nên tôi phải như thế”. Từ câu chuyện trên, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận trình bày sự ảnh hưởng của gia đình đối với mỗi cá nhân. @/ Đề 6 : Văn hào Nga Lép Tôn-xtôi đã nói : “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường.Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống” Nêu suy nghĩ của anh/chị về câu nói trên trong một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) . @/ Đề 7: Viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh / chị về hiện tượng học đối phó và quay cóp bài trong giờ kiểm tra của học sinh trung học phổ thông hiên nay. @/Đề 8 Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) về vấn đề trên. @/ Đề 9: Tự học- con đường đi tới thành công. @/ Đề 10 : Viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) thể hiện suy nghĩ của anh/chị về câu nói sau đây của Hồ Chí Minh: “ Về cách học, phải lấy tự học làm cốt. Học để hành, hành để học”. @/ ĐỀ 11: Đọc văn bản sau : Cái nhiệt kế và máy điều hòa nhiệt độ Bạn có biết sự khác biệt giữa cái nhiệt kế và máy điều hòa nhiệt độ không? Cái nhiệt kế đơn thuần chỉ cho chúng ta biết nhiệt độ của từng vùng riêng biệt. Ví dụ như cái nhiệt kế của bạn đang chỉ 35 độ C và bạn đem nó vào trong phòng máy lạnh có nhiệt độ là 28 độ C thì nó sẽ thay đổi chỉ số của mình để phù hợp với nhiệt độ của phòng là 28 độ C. Cái nhiệt kế luôn điều chỉnh để hòa hợp với nhiệt độ của môi trường xung quanh. Cái máy điều hòa thì ngược lại, nó điều chỉnh nhiệt độ trong phòng. Nếu trong phòng đang có nhiệt độ là 28 độ C và máy điều hòa cài đặt ở 20 độ C thì chẳng bao lâu nhiệt độ trong phòng là 20 độ C, phù hợp với chsố của máy điều hòa. (Bài học làm người – NXB Trẻ, 2006) Trong cuộc sống, anh/chị sẽ là cái nhiệt kế hay là cái máy điều hòa nhiệt độ? Hãy viết một bài văn nghị luận bày tỏ quan điểm của bản thân. @/ ĐỀ 13: “Trách nhiệm chính là thứ mà con người đôi lúc cảm thấy bị ràng buộc nhất. Tuy nhiên, đó cũng chính là yếu tố cơ bản cần phải có để xây dựng và phát triển nhân cách của mỗi con người” (Frank Crane). @/ ĐỀ 14 : Phấn son Tốt nghiệp đại học, ở lại thành phố đi làm. Tháng rồi, mẹ vào thăm. Mừng và thương. Mẹ khen: “Bạn gái con xinh”. Cuối tháng, lãnh lương. Dẫn người thương đi shopping. Em bảo: “Mỹ phẩm của hãng này là tốt nhất. Những loại rẻ tiền khác đều không nên dùng vì có hại cho da, giống mẹ anh đó, mẹ bị nám hết anh thấy không…” Chợt giật mình. Mẹ cả đời lam lũ, nắng gió với cái ăn, nào đã biết phấn son màu gì… Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về câu chuyện trên ? Từ đó có thể rút ra điều gì bổ ích cho bản thân mình. nh (chị) hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) bày tỏ suy nghĩ về ý kiến trên. @ : Đọc những câu chuyện sau , xác định nội dung- ý nghĩa của từng câu chuyện.Từ đó viết bài văn ngắn, trình bày những suy nghĩ về nội dung - ý nghĩa của từng câu chuyện và rút ra bài học cuộc sống. 1.Hai hạt lúa Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm: “ Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ.” Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó. Còn hạt lúa thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới. Thời gian trôi qua, hạt lúa thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận được nước và ánh sáng. Lúc này chất dinh dưỡng chẳng giúp ích được gì- nó chết dần chết mòn. Trong khi đó, hạt lúa thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới... Đừng bao giờ tự khép mình trong lớp vỏ chắc chắn để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân mà hãy can đảm bước đi, âm thầm chịu nát tan để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ - đó là sự chọn lựa của hạt giống thứ hai. Tôi hy vọng đó cũng sẽ là sự lựa chọn của bạn và tôi khi đứng trước cánh đồng cuộc đời bao la này... 2.Đừng bao giờ từ bỏ ước mơ Ngày đầu tiên của năm học, vị giáo sư môn hóa lớp của lớp tôi tự giới thiệu mình với sinh viên trong lớp. Rồi dành thì giờ cho chúng tôi làm quen với nhau. Đương lúc tôi đứng dậy nhìn xung quanh thì nhận thấy một bàn tay dịu dàng đặt lên vai mình. Tôi xoay người lại và nhận ra đó là bà cụ có vóc dáng nhỏ bé, làn da nhăn nheo, tươi cười nhìn tôi với nụ cười làm sáng cả gương mặt bà. Bà nói: - Xin chào, anh bạn tuấn tú. Tôi tên là Rose. Tôi 87 tuổi. Tôi có thể ôm anh bạn được chứ? Tôi cười và vui vẻ trả lời: - Dĩ nhiên là được, thưa bà! – và bà đã ôm tôi thật chặt. - Tại sao bà lại vào đại học ở độ tuổi hồn nhiên và trẻ trung như thế này? – Tôi hỏi đùa. Bà mỉm cười: - Tôi đến đây để tìm một người đàn ông nổi tiếng, có tâm hồn để yêu và sẽ bên nhau, có một vài đứa con, và sau đó về hưu rồi đi du lịch vòng quanh thế giới. - Bà nói nghiêm túc chứ? – tôi hỏi. Tôi tò mò muốn biết điều gì đã thúc đẩy bà muốn thử thách như thế ở độ tuổi như bà. - Tôi luôn mơ ước được vào một trường đại học và bây giờ tôi đang thực hiện giấc mơ đó! – bà nói với tôi. Sau khi giờ học kết thúc chúng tôi đi đến tòa nhà hội sinh viên cùng uống với nhau một ly sữa sô cô la. Chúng tôi trở thành bạn của nhau ngay. Hằng ngày trong suốt 3 tháng tiếp theo chúng tôi luôn cùng nhau rời khỏi lớp và trao đổi với nhau không dứt. Tôi luôn bị cuốn hút bởi “cỗ máy thời gian” này khi nghe bà chia sẻ sự từng trải và kinh nghiệm cuộc đời của bà với tôi. Qua năm học, Rose trở thành một nhân vật biểu tượng trong trường đại học và dễ dàng kết bạn với tất cả mọi người. Bà thích ăn mặc lịch sự, có tính cách và hạnh phúc với sự chú ý mà các sinh viên khác tập trung vào mình. Bà luôn sống trong niềm say sưa đó. Vào cuối khóa học chúng tôi mời Rose đến nói chuyện trong một buổi tiệc chiêu đãi và tôi sẽ không bao giờ quên được những gì bà đã truyền cho chúng tôi. Bà được giới thiệu và bước lên bục giảng đường. Khi bắt đầu phát biểu, bà đánh rơi mảnh giấy ghi chú xuống sàn. Hơi ngại ngùng và thoáng bối rối bà nghiêng người xuống micro và nói: - Xin lỗi quý vị, tôi hơi hồi hộp. Tôi đã bỏ bia và chuyển sang rượu Lent và thứ rượu này đang giết chết tôi mất! Tôi không bao giờ sắp xếp những gì mình sẽ nói, hãy để cho tôi nói với các bạn một cách giản dị những gì tôi thực sự hiểu. Khi chúng tôi cười, bà lấy giọng và bắt đầu: - Chúng ta ngừng vui chơi bởi vì chúng ta đã già, nhưng thật ra chúng ta già bởi vì chúng ta không vui chơi nữa. Chỉ có năm bí quyết để giữ mình trẻ mãi, hạnh phúc và đạt được thành công. Thứ nhất, các bạn hãy vui cười lên và tìm kiếm sự hài hước trong cuộc sống hằng ngày. Thứ hai, các bạn hãy xem mỗi ngày là một ngày mới với những điều mới mẻ. Ai sống bằng quá khứ, định kiến của ngày hôm qua sẽ không có cơ hội tin và hiểu con người. Các bạn hãy trải lòng với những người có thể chia sẻ được. Hãy kiên trì, tin vào tâm hồn con người và đừng nhìn vào một lỗi lầm nào đó để phá bỏ tất cả những gì tốt đẹp sẽ đến trong tương lai. Các bạn đừng ngại mạo hiểm để thay đổi cuộc sống. Thứ ba, các bạn phải có một mơ ước, một khát vọng. Khi các bạn đánh mất những mơ ước đó, các bạn sẽ chết. Đã có quá nhiều người trong chúng ta chết theo kiểu ấy và họ thậm chí cũng không biết đến điều đó! Thứ tư, có sự khác biệt lớn giữa việc trở nên già hơn và trưởng thành. Nếu bạn 19 tuổi và nằm trên giường suốt một năm trời mà không làm được điều gì hữu ích, bạn sẽ thành 20 tuổi. Nếu tôi 87 tuổi và cứ nằm trên giường suốt một năm và không làm bất cứ điều gì, tôi vẫn sẽ trở thành một bà cụ 88 tuổi. Bất cứ người nào cũng phải lớn lên và già đi. Nhưng điều đó không làm mất đi tài năng và khả năng của các bạn. Vấn đề là trưởng thành bằng cách luôn luôn tìm được cơ hội để thay đổi. Thứ năm, đừng bao giờ nuối tiếc. Người trưởng thành thường không nuối tiếc về những gì mình đã làm mà sẽ nuối tiếc về những gì mình đã không làm. Chỉ những người sợ chết mới hay nuối tiếc. Bà kết thúc bài thuyết trình của mình bằng cách mạnh dạn hát bài “Cánh hoa hồng”. Bà đã cùng chúng tôi hát bài hát đó và lời bài hát ấy hiện giờ trở nên quen thuộc với cuộc sống hằng ngày của chúng tôi. Vào cuối năm, Rose đã hoàn tất văn bằng đại học mà bà bắt đầu nhiều năm trước đây. Một tuần sau tốt nghiệp Rose đã ra đi một cách thật thanh thản trong giấc ngủ. Hơn hai ngàn sinh viên của trường đã đến dự đám tang của bà bằng tất cả lòng kính trọng, mến thương đối với người phụ nữ tuyệt vời đã dùng cuộc đời mình làm tấm gương minh chứng rằng: “Không bao giờ quá trễ để thực hiện tất cả những gì mà bạn có thể làm được trong đời.” 3.BÀI HỌC TỪ LOÀI NGỖNG Vào mùa thu, khi bạn thấy đàn ngỗng bay về phương Nam để tránh đông theo hình chữ V, bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào đó có thể rút ra từ đó? Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẫy cho con ngỗng bay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực so với khi chúng bay từng con một. Khi là thành viên của một nhóm, ta cùng chia sẻ những mục tiêu chung, ta sẽ đi đến nói ta muốn nhanh hơn và dễ dàng hơn, vì ta đang đi dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Mỗi khi con ngỗng bay lạc hỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó nhanh chóng trở lại đàn để bay theo hình chữ V như cũ và được hưởng những ưu thế của sức mạnh bầy đàn. Nếu chúng ta cũng cảm nhận sự tinh tế của loài ngỗng, chúng ta sẽ chia sẻ thông tin với những người cũng đang cùng một mục tiêu như chúng ta. Khi con ngỗng đầu đàn mệt mỏi, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu. Chia sẻ vị trí lãnh đạo sẽ đem lại lợi ích cho tất cả và những công việc khó khăn nên được thay phiên nhau đảm nhận. Tiếng kêu của đàn ngỗng từ đằng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của chúng. Những lời động viên sẽ tạo nên sức mạnh cho những người đang ở đầu con sóng, giúp họ giữ vững tốc độ, thay vì để họ mỗi ngày phải chịu đựng áp lực công việc và sự mệt mỏi triền miên. Cuối cùng khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương rơi xuống, hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đên khi nào con ngỗng bị thương có thể bay lại được hoặc là chết và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác và bay về Phương Nam. Nếu chúng ta có tinh thần của loài ngỗng, chúng ta sẽ sát cánh bên nhau khi có khó khắn. Lần sau có cơ hội thấy một đàn Ngỗng bay bạn hãy nhớ….Bạn đang hưởng một đặc ân khi là thành viên của một nhóm. 4.ĐIỀU ƯỚC CỦA 3 CÂY CỔ THỤ Ở một khu rừng nọ có ba cây cổ thụ đang bàn luận về tương lai. Cây thứ nhất nói: “Một ngày nào đó tôi muốn được trở thành chiếc hộp đựng châu báu với hình dáng lộng lẫy”. Cây thứ hai nói: “Tôi muốn trở thành con thuyền to lớn . Tôi sẽ chở đức vua và hòang hậu đi khắp thế giới”. Và cây thứ ba: “Tôi muốn vươn dài để trở thành cây to lớn nhất trong khu rừng này. Mọi người nhìn lên đồi sẽ thấy tôi vươn xa, chạm đến bầu trời”. Một vài năm sau đó một nhóm người đặt chân đến khu rừng và cưa những thân cây. Cả ba đều mỉm cười hạnh phúc vì tin mong ước của mình sẽ thành hiện thực. Khi cây đầu tiên được bán cho một chủ trại mộc, nó được tạo thành máng đựng thức ăn gia súc và đặt trong kho thóc phủ lên bởi một lớp cỏ. Cây thứ hai được bán cho một thợ đóng thuyền đóng thành một chiếc thuyền nhỏ để câu cá. Cây thứ ba bị chặt thành từng khúc và quẳng lại trong bóng đêm. Đây chẳng phải là những điều mà chúng hằng mong đợi. Một ngày nọ, một cặp vợ chồng đến kho thóc. Người vợ đã đến kỳ sinh nở, người chồng hy vọng tìm được một chiếc nôi cho đứa bé và máng cỏ đã trở thành chỗ ở ấm áp cho em. Cây thứ nhất cảm nhận cảm nhận được sự quan trọng của nó và hiểu rằng mình đang che chở một sinh linh bé nhỏ. Vài năm sau, một nhóm người đi đánh cá trên chiếc thuyền của cây thứ hai gặp phải một trận bão lớn. Những người trên thuyền đã rất mệt mỏi, nhưng cây thứ hai biết rằng nó có đủ sự vững chãi để giữ an tòan và sự bình yên cho chủ nhân. Với cây thứ ba, một ngày, có ai đó đã đến và nhặt những khúc gỗ. Trên đỉnh đồi, nó được đóng thành một hàng rào ngăn chặn thú dữ. Khi ánh mặt trời vừa ló dạng, cây thứ ba nhận ra rằng nó có đủ sức mạnh để đứng vững trên đỉnh đồi này. Khi sự việc xảy ra không theo như ý muốn, đừng tuyệt vọng vì mọi việc diễn ra đều có chủ đích. Cà ba cây cổ thụ đều thực hiện được những ước mơ của mình, dù cách thức để đạt đến đích cuối cùng không như mong đợi. Cuộc sống sẽ không phụ những kẻ có lòng. 5.CÁI KÉN BƯỚM Một chàng trai nọ tìm thấy một cái kén bướm. Một hôm anh thấy cái kén hé một lỗ nhỏ. Anh ta ngồi hàng giờ nhìn chú bướm nhỏ cố thoát mình khỏi cái lỗ nhỏ xíu. Rồi anh ta thấy mọi việc không tiến triển gì thêm. Hình như chú bướm không thể cố hơn được nữa. Vì thế, anh ta quyết định giúp chú bướm nhỏ. Anh ta lấy kéo rạch cho cái lỗ to thêm. Chú bướm dễ dàng thoát ra khỏi cái kén. Nhưng thân mình nó sưng phồng lên, đôi cánh thì nhăn nhúm. Còn chàng thanh niên cứ ngồi quan sát cái kén với hy vọng một lúc nào đó thân mình chú bướm sẽ xẹp lại và đôi cánh xoè rộng hơn đủ để nâng đỡ thân hình chú. Nhưng chẳng có gì thay đổi cả ! Sự thật là chú bướm đã phải bò loanh quanh suốt quãng đời còn lại với đôi cánh nhăn nhúm và thân hình sưng phồng. Nó chẳng bao giờ có thể bay được. Có một điều mà người thanh niên không thể hiểu: cái kén chật chội khiến chú bướm phải nỗ lực mới chui qua được cái lỗ nhỏ xíu kia là quy luật tự nhiên tác động lên đôi cánh và cơ thể của bướm, giúp chú có thể bay ngay khi thoát ra ngoài. Đôi khi đấu tranh là rất cần thiết trong cuộc sống. Nếu ta quen sống một cuộc đời phẳng lặng, ta sẽ mất đi sức mạnh tiềm tàng mà bẩm sinh mỗi người đều có. Và chẳng bao giờ ta có thể bay được. Vì thế, nếu bạn thấy mình đang phải vượt qua nhiều áp lực và căng thẳng thì hãy tin rằng sau đó bạn sẽ trưởng thành và bay cao, bay xa... 6.MỘT LY SỮA Có một cậu bé nghèo bán hàng rong ở các khu nhà để kiếm tiền đi học. Hôm đó, cậu lục túi chỉ còn chỉ còn mấy đồng tiền ít ỏi mà bụng đang rất đói. Cậu quyết định xin một bữa ăn tại một căn nhà gần đó. Cậu hốt hoảng khi thấy một cô bé dễ thương ra mở cửa. Thay vì xin ăn, cậu ta đành xin một ly nước uống. Cô bé nghĩ rằng cậu ta trông đang đói nên đem ra một ly sữa lớn. Cậu uống từ từ, rồi hỏi: "Tôi nợ bạn bao nhiêu?" Cô bé đáp: "Bạn không nợ tôi bao nhiêu cả. Mẹ dạy rằng chúng tôi không bao giờ nhận tiền khi làm một điều tốt." Cậu ta nói: "Vậy thì tôi cảm ơn bạn nhiều lắm." Khi Howard Kelly rời căn nhà đó, cậu ta không những cảm thấy trong người khoẻ khoắn, mà còn thấy niềm tin vào con người, vào cuộc sống rất mạnh mẽ. Sau bao năm, cô gái đó bị ốm nghiêm trọng. Các bác sĩ trong vùng bó tay và chuyển cô lên bệnh viện trung tâm thành phố để các chuyên gia chữa trị căn bệnh hiểm nghèo này. Tiến sĩ Howard Kelly được mời làm chuyên gia. Khi nghe tên nơi ở của bệnh nhân, một tia sáng lạ loé lên trong mắt anh ta. Anh đứng bật dậy và đi đến phòng cô gái. Anh nhận ra cô gái ngay lập tức. Anh quay trở lại phòng chuyên gia và quyết tâm phải gắng hết sức để cứu được cô gái. Anh đã quan tâm đặc biệt. Sau thời gian đấu tranh lâu dài, căn bệnh của cô gái đã qua khỏi. Anh cầm tờ hoá đơn thanh toán viện phí, viết gì đó bên lề và cho chuyển lên phòng cô gái. Cô gái lo sợ không dám mở tờ hoá đơn viện phí ra, bởi vì cô chắc chắn rằng đến suốt đời thì cô cũng khó mà thanh toán hết số tiền này. Cuối cùng cô can đảm nhìn, và chú ý đến dòng chữ bên cạnh tờ hoá đơn: "Đã thanh toán đủ bằng một ly sữa." (Ký tên) Tiến sĩ Howard Kelly. Mắt đẫm lệ, cô gái xúc động thốt lên: "Lạy chúa, tình yêu thương bao la của người đã lan rộng trong trái tim và bàn tay con người." (*) Tiến sĩ Howard Kelly là một nhà vât lý lỗi lạc, đã sáng lập ra Khoa Ung thư tại trường Đại học John Hopkins năm 1895. 7.BÀI HỌC TỪ HƯƠU CAO CỔ Khi sinh con, hươu mẹ không nằm mà lại đứng và như vậy hươu con chào đời bằng một cú rơi hơn 3m xuống đất và nằm ngay đơ. Rồi hươu mẹ làm một việc kỳ lạ: đá hươu con cho đến khi nào chú ta chịu đứng dậy mới thôi. Khi hươu con mỏi chân và nằm, hươu mẹ lại thúc chú đứng lên. Đến lúc hươu con đã thực sự đứng được, hươu mẹ lại đẩy chú ngã xuống để chú phải nỗ lực tự mình đứng dậy lần nữa. Điều này nghe có vẻ lạ với chúng ta, nhưng lại thực sự cần thiết cho hươu con bởi vì hươu con cần phải tự đứng được để có thể tồn tại với bầy đàn, nếu không hươu con sẽ trơ trọi với cuộc đời và trở thành miếng mồi ngon cho thú dữ. Chúng ta cũng thế, thật dễ nản chí khi mọi việc đều trở nên tồi tệ. Nhưng cho dù đang phải đối mặt với nhiều gian khổ thì ta vẫn phải giữ vững niềm tin. Hãy ghi nhớ rằng mỗi khi ta phải đối mặt với nghịch cảnh, trong ta luôn có một sức mạnh tiềm ẩn. Đừng bao giờ để thất bại quật ngã mà hãy để nó trở thành thầy dạy của chúng ta. Đây chính là bí quyết để thành công. Người ta không thua khi bị đánh bại mà chỉ thua khi đầu hàng. Thomas Edison đã nói: “Tôi không bao giờ nản chí vì đối với tôi mỗi một nỗ lực không thành công là một bước tiến bộ”. 8.NHỮNG VẾT ĐINH Một cậu bé nọ có tính rất xấu là rất hay nổi nóng. Một hôm, cha cậu bé đưa cho cậu một túi đinh rồi nói với cậu:"Mỗi khi con nổi nóng với ai đó thì hãy chạy ra sau nhà và đóng một cái đinh lên chiếc hàng rào gỗ". Ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng tất cả 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần, cậu bé đã tập kiềm chế dần cơn giận của mình và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào ngày một ít đi. Cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình dễ hơn là phải đi đóng một cây đinh lên hàng rào. Đến một ngày, cậu bé đã không nổi giận một lần nào trong suốt cả ngày. Cậu đến thưa với cha và ông bảo: "Tốt lắm, bây giờ nếu sau mỗi ngày mà con không hề giận với ai dù chỉ một lần, con hãy nhổ cây đinh ra khỏi hàng rào". Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng đến một hôm cậu bé đã vui mừng hãnh diện tìm cha mình báo rằng đã không còn một cây đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu liền đến bên hàng rào. Ở đó, ông nhỏ nhẹ nói với cậu: - "Con đã làm rất tốt, nhưng con hãy nhìn những lỗ đinh còn để lại trên hàng rào. Hàng rào đã không giống như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì trong cơn giận dữ, những lời nói ấy cũng giống như những lỗ đinh này, chúng để lại những vết thương khó lành trong lòng người khác. Cho dù sau đó con có nói lời xin lỗi bao nhiêu lần đi nữa, vết thương đó vẫn còn lại mãi. Con hãy luôn nhớ: vết thương tinh thần còn đau đớn hơn cả những vết thương thể xác. Những người xung quanh ta, bạn bè ta là những viên đá quý. Họ giúp con cười và giúp con mọi chuyện. Họ nghe con than thở khi con gặp khó khăn, cổ vũ con và luôn sẵn sàng mở trái tim mình ra cho con. Hãy nhớ lấy lời cha…" 9.CỔ TÍCH NGƯỜI CHA Khi ông Trời bắt đầu tạo ra nguời cha đầu tiên trên thế gian, ngài chuẩn bị sẵn một cái khung thật cao. Một nữ thần đi ngang qua ghé mắt coi và thắc mắc: “Thưa ngài, tại sao nguời cha lại cao đến như vậy? Nếu ông ta đi chơi bi với trẻ con thì phải quỳ gối, nếu ông ấy muốn hôn những đứa con mình lại phải cúi nguời. Thật bất tiện!”. Trời trầm ngâm một chút rồi gật gù: “Ngươi nói có lý. Thế nhưng nếu ta để cho nguời cha chỉ cao bằng những đứa con, thì lũ trẻ sẽ biết lấy ai làm tầm cao mà vươn tới?”. Thấy Trời nặn đôi bàn tay nguời cha to và thô ráp, vị nữ thần lại lắc đầu buồn rầu: “Ngài có biết đang làm gì không? Những bàn tay to lớn thường vụng về. Với đôi bàn tay ấy, nguời cha chật vật lắm mới có thể găm kim băng đóng tã, cài nút áo cho con trai, thắt chiếc nơ hồng cho con gái. Bàn tay ấy không đủ khéo léo để lấy những mảnh dằm nằm sâu trong da thịt mềm mại của trẻ”. Ông Trời mỉm cuời đáp: “Nhưng đôi bàn tay to lớn vững chãi đó sẽ dìu dắt bọn trẻ qua mọi sóng gió, cho tới lúc chúng trưởng thành”. Vị nữ thần đứng bên cạnh nhìn Trời nặn nguời cha với một đôi vai rộng, lực luỡng. “Tại sao ngài phí thế?”, nữ thần thắc mắc. “Thế người cha sẽ đặt con ngồi đâu khi phải đưa nó đi xa? Lấy chỗ đâu cho đứa con ngủ gật gối đầu, khi đi xem xiếc về khuya? và Quan trọng hơn, đôi vai đó sẽ gánh vác cả gia đình”, ông Trời đáp. Ông Trời thức trắng đêm để nặn cho xong nguời cha đầu tiên. Ngài cho tạo vật mới ít nói, nhưng mỗi lời phát ra là một lời quyết đoán. Tuy đôi mắt của nguời cha nhìn thấu mọi việc trên đời, nhưng lại bình tĩnh và bao dung. Cuối cùng khi đã gần như hoàn tất công việc, Trời thêm vào khóe mắt nguời cha vài giọt nuớc mắt. Nhưng sau một thoáng tư lự, Ngài lại chùi chúng đi. Thành ra người đời sau không mấy khi thấy được những giọt lệ hiếm hoi của người cha, mà chỉ có thể cảm và đoán được rằng ông ta đang khóc. Xong việc, ông Trời quay lại nói với nữ thần: “Ngươi thấy đó, người cha cũng đáng yêu như nguời mẹ mà ta đã dồn bao công sức để tạo ra”. 10.Cho và nhận Trên đường đi, hai người bắt gặp một đôi giày cũ nằm giữa đường. Họ cho rằng đó là đôi giày của một nông dân nghèo làm việc ở một cánh đồng gần bên, có lẽ ông ta đang chuẩn bị kết thúc ngày làm việc của mình. Anh sinh viên quay sang nói với vị giáo sư: "Chúng ta hãy thử trêu chọc người nông dân xem sao. Em sẽ giấu giày của ông ta rồi thầy và em cùng trốn vào sau những bụi cây kia để xem thái độ ông ta ra sao khi không tìm thấy đôi giày." Vị giáo sư ngăn lại: "Này, anh bạn trẻ, chúng ta đừng bao giờ đem những người nghèo ra để trêu chọc mua vui cho bản thân. Nhưng em là một sinh viên khá giả, em có thể tìm cho mình một niềm vui lớn hơn nhiều nhờ vào người nông dân này đấy. Em hãv đặt một đồng tiền vào mỗi chiếc giày của ông ta và chờ xem phản ứng ông ta ra sao." Người sinh viên làm như lời vị giáo sư chỉ dẫn, sau đó cả hai cùng trốn vào sau bụi cây gần đó. Chẳng mấy chốc người nông dân đã xong việc và băng qua cánh đồng đến nơi đặt giày và áo khoác của mình. Người nông dân vừa mặc áo khoác vừa xỏ chân vào một chiếc giày thì cảm thấy có vật gì cứng cứng bên trong, ông ta cúi xuống xem đó là vật gì và tìm thấy một đồng tiền. Sự kinh ngạc bàng hoàng hiện rõ trên gương mặt ông. Ông ta chăm chú nhìn đồng tiền, lật hai mặt đồng tiền qua lại và ngắm nhìn thật kỹ. Rồi ông nhìn khắp xung quanh nhưng chẳng thấy ai. Lúc bấy giờ ông bỏ đồng tiền vào túi, và tiếp tục xỏ chân vào chiếc giày còn lại. Sự ngạc nhiên của ông dường như được nhân lên gấp bội, khi ông tìm thấy đồng tiền thứ hai bên trong chiếc giày. Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, người nông dân quì xuống, ngước mặt lên trời và đọc to lời cảm tạ chân thành của mình. Ông bày tỏ sự cảm tạ đối với bàn tay vô hình nhưng hào phóng đã đem lại một mòn quà đúng lúc cứu giúp gia đình ông khỏi cảnh túng quẫn người vợ bệnh tật không ai chăm sóc và đàn con đang thiếu ăn. Anh sinh viên lặng người đi vì xúc động, nước mắt giàn giụa. Vị giáo sư lên tiếng: "Bây giờ em có cảm thấy vui hơn lúc trước nếu như em đem ông ta ra làm trò đùa không?" Người thanh niên trả lời: "Giáo sư đã dạy cho em một bài học mà em sẽ không bao giờ quên. Đến bây giờ em mới hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói mà trước đây em không hiểu: "Cho đi là hạnh phúc hơn nhận về".