Trường THPT Phan Chu Trinh
TỔ ĐỊA LÝ
THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐẢO PHẦN THI KIẾN THỨC
HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA CHỦ ĐỀ 1 “HƯỚNG VỀ BIỂN ĐẢO”
I-/ Phần thi năng khiếu:
Trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông ngày càng leo thang, các nước ASEAN đều mong muốn sớm xây dựng COC như là một công cụ hiệu quả để duy trì hoà bình ổn định, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông.
Tháng 11/2002, tại Hội nghị cấp cao ASEAN tại Phnom-pênh (Căm-pu-chia), các nước ASEAN và Trung Quốc đã cùng nhau ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Nội dung chính của DOC gồm: Một là, các Bên cam kết tuân thủ mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, 5 nguyên tắc tồn tại hòa bình và các nguyên tắc phổ cập khác của pháp luật quốc tế; Hai là, các Bên cam kết giải quyết mọi tranh chấp lãnh thổ và tranh chấp về quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; Ba là, các bên khẳng định tôn trọng tự do hàng hải và tự do bay ở Biển Đông như đã được quy định bởi các nguyên tắc phổ cập của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982; Bốn là, các bên cam kết kiềm chế không tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp thêm hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định.Năm là, các Bên cam kết cùng nỗ lực để tìm kiếm các phương cách xây dựng lòng tin và thúc đẩy các hoạt động hợp tác trong một số lĩnh vực ít nhạy cảm.
II-/ Một số câu hỏi trong phần thi tìm hiểu kiến thức về cơ sở pháp lý các bộ phận của vùng biển Việt Nam theo Công ước Luật biển năm 1982; Bộ qui tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC); Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC).
1. Biển Đông là 1 vùng biển nửa kín, tương bao bọc bởi nhiều quốc gia, đó là những quốc gia nào?
2. Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982, Việt Nam có quyền gì ở Biển Đông?
3. Nêu các bộ phận của vùng biển chủ quyền Việt Nam và cơ sở pháp lý của các bộ phận vùng biển chủ quyền.
4. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Việt Nam dựa trên những cơ sở nào?
5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 vào ngày tháng năm nào?
6. Ý nghĩa của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982?
7. Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982, Trung Quốc đã có những hành động động gì vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam?
8. Theo phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh, trong đàm phán với Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, nội dung quan trọng nhất là gì?
9. Các nước ASEAN và Trung Quốc đã cùng nhau ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) vào ngày tháng năm nào?
10. Việc Trung Quốc đưa giàn khoan lớn nhất vào vùng biển Việt Nam, đe dọa Việt Nam bằng cả tàu quân sự và bán quân sự, và từ chối đàm phán giải quyết tranh chấp với Việt Nam đã gây hậu quả gì?
11. Trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông ngày càng leo thang, các nước ASEAN đều mong muốn sớm xây dựng Bộ qui tắc ứng xử ở Biển Đông COC như là một công cụ hiệu quả để duy trì hòa bình, ổn định, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông. Hãy trình bày sơ lược tiến trình xây dựng COC.
12. Ngày 2/5/2014, Trung Quốc hạ đặt trái phép dàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động phi pháp này đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Việt Nam đã thực hiện những biện pháp gì đấu tranh với phía Trung Quốc?
13. Đề xuất các biện pháp tích cực nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo?
14. Trách nhiệm của bản thân em đối với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo nói riêng và lãnh thổ Việt nam nói chung?
15. Thông điệp của em muốn gửi tới toàn thể mọi người là gì?
III-/ Một số gợi ý trả lời
- Việt Nam và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông
Với chủ trương đối ngoại hòa bình, VN đã nhiệt liệt ủng hộ Tuyên bố năm 1992 của ASEAN về Biển Ðông, mặc dù lúc đó VN chưa phải là thành viên của ASEAN. Sau khi gia nhập ASEAN, VN đã tích cực thúc đẩy và có nhiều đóng góp vào việc xây dựng Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông. Ban đầu VN chủ trương và nỗ lực theo hướng ASEAN và Trung Quốc ký một văn kiện có tính pháp lý cao hơn liên quan vấn đề Biển Ðông. Tuy nhiên, trong quá trình thương lượng nảy sinh một số vấn đề kỹ thuật không đạt được sự nhất trí chung. Trong quá trình thực hiện DOC, Việt Nam luôn kiên trì chủ trương giải quyết mọi tranh chấp liên quan Biển Ðông bằng các biện pháp hòa bình, căn cứ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982, thúc đẩy thực hiện đầy đủ DOC, tiến tới xây dựng COC vì mục đích góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Ðông. Việt Nam cũng tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực về biển với các nước láng giềng liên quan. Các nỗ lực và việc làm của VN được chính giới và dư luận quốc tế và khu vực đánh giá tích cực.
Trả lời câu hỏi liên quan đến chủ đề Biển Ðông tại buổi họp báo ngày 9/4/2010 về kết quả Hội nghị cấp cao ASEAN 16, Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: "Duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn trên Biển Ðông là lợi ích chung và là mối quan tâm lớn của các nước ASEAN, trong khu vực. Các nước liên quan đã xây dựng nhiều thỏa thuận và cơ chế hợp tác nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định và cùng hợp tác ở khu vực, trong đó có Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Ðông (DOC). Ðây là văn kiện được ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc, nhằm thúc đẩy xây dựng lòng tin, hợp tác”. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: "Với thiện chí của các bên và vì lợi ích chung của khu vực, các bên liên quan sẽ tiếp tục tuân thủ và thực hiện tốt DOC, cũng như Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982, góp phần thiết thực duy trì hòa bình, ổn định, an ninh ở Biển Ðông”.
Với tinh thần đó, Việt Nam sẽ tiếp tục cùng các nước ASEAN thống nhất về các thành tố cơ bản của COC. Từ đó, ASEAN và Trung Quốc sẽ bàn bạc để sớm hoàn thành Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 20 tại Phnom Penh vừa qua, VN đánh giá cao việc thông qua Bản Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC và đề nghị ASEAN cần sớm thống nhất các thành tố cơ bản của COC để làm cơ sở đối thoại với Trung Quốc.
Trong bối cảnh đó, VN đã thể hiện tinh thần trách nhiệm, đồng ý bước đầu ký văn kiện ở hình thức Tuyên bố như văn bản DOC hiện hành. Từ khi Tuyên bố DOC được ký đến nay, VN luôn tuân thủ các cam kết trong DOC, đồng thời yêu cầu các nước liên quan thực hiện đúng các cam kết trong Văn kiện này. Tuyên bố DOC thực sự có đóng góp quan trọng cho việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Ðông. Nghiêm túc tôn trọng tinh thần Tuyên bố DOC và thực hiện đầy đủ DOC sẽ có lợi cho cả ASEAN và Trung Quốc.
Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm bãi Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa năm 1995, tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp và căng thẳng.
Trong bối cảnh đó, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 29 tại Jakarta, Indonesia tháng 7/1996 ra Tuyên bố chung bày tỏ quan ngại trước những diễn biến trên Biển Đông và nhấn mạnh việc cần thiết phải xây dựng một Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) để duy trì ổn định trong khu vực và thúc đẩy sự hiểu biết giữa các quốc gia trong khu vực.
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN, Hà Nội tháng 12/1998, lãnh đạo các nước ASEAN đã nhất trí xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông.
Trên cơ sở dự thảo của Philippin và Việt Nam, trong năm 1999, các nước ASEAN đã nỗ lực thảo luận về COC và đến cuối năm 1999, các nước ASEAN đã thống nhất được dự thảo chung của COC để đàm phán với Trung Quốc. Từ đầu năm 2000, ASEAN và Trung Quốc bắt đẩu tiến hành thương lượng về dự thảo COC. Tuy nhiên, do Trung Quốc không muốn có các nội dung mang tính ràng buộc pháp lý cao trong COC có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc nên đã tìm mọi cách ngăn cản việc hình thành Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông làm cho đàm phán bế tắc.
Chính vì vậy, việc Trung Quốc đưa giàn khoan lớn nhất vào vùng biển Việt Nam, đe dọa Việt Nam bằng cả tàu quân sự và bán quân sự, và từ chối đàm phán giải quyết tranh chấp với Việt Nam đã thực sự gây sốc với ASEAN và cộng đồng quốc tế. Đây là việc làm có chủ ý và tính toán kỹ từ Bắc Kinh, vì có sự phối hợp rất đồng bộ của nhiều lực lượng và địa phương khác nhau. Những hành động này đã đe dọa hòa bình và ổn định khu vực, trái với luật pháp quốc tế và những cam kết của Bắc Kinh về việc thực thi đầy đủ DOC. Hơn nữa, cũng hoàn toàn trái ngược với những động thái thân thiện của lãnh đạo Trung Quốc với ASEAN từ đầu năm 2013.
- Công ước Luật biển 1982
Công ước Luật biển 1982 là hiến pháp của biển, là cơ sở pháp lý chung cho việc giải quyết các tranh chấp biển, trong đó có phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước xung quanh Biển Đông. Bài viết nhân kỷ niệm 30 năm ngày ký kết và nhân ngày Viêt Nam thông qua Luật biển.
Khi trở thành thành viên của Công ước, các quốc gia có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ các quy định trong Công ước, không có ngoại lệ, và không có bảo lưu.
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 “Công ước Luật biển 1982” là cơ sở pháp lý chung cho việc giải quyết các tranh chấp biển, trong đó có phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước xung quanh Biển Đông.
Công ước Luật biển 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 bao gồm 320 điều khoản và 9 Phụ lục.
Công ước quy định giới hạn cho các vùng khu vực, tính từ đường cơ sở (baseline) và được định nghĩa rõ ràng.Bao gồm:
Nội thủy: Bao phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở (phía đất liền). Tại đây, quốc gia ven biển được tự do áp đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội thủy.
Lãnh hải: Là vùng nằm ngoài đường cơ sở có chiềurộng12 hải lý. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài được quyền "qua lại không gây hại" mà không cần xin phép nước chủ. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và do thám không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ cũng có thể tạm thời cấm việc "qua lại không gây hại" này tại một số vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh.
Vùng nước quần đảo: Công ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần đảo, cũng như định nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ đường biên giới lãnh thổ của mình như thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa các điểm ngoài cùng nhất của các đảo ở ngoài cùng nhất, đảm bảo rằng các điểm này phải đủ gần nhau một cách thích đáng. Mọi vùng nước bên trong đường cơ sở này sẽ là vùng nước quần đảo và được coi như là một phần của lãnh hải quốc gia đó.
Vùng tiếp giáp lãnh hải: Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải là một vành đai có bề rộng 12 hải lý, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đây, nước chủ có thể vẫn thực thi luật pháp của mình đối với các hoạt động như buôn lậu hoặc nhập cư bất hợp pháp.
Vùng đặc quyền kinh tế: Là khoảng cách rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác đối với tất cả các tài nguyên thiên nhiên. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy và đường không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Nước ngoài cũng có thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm.
Thềm lục địa: Là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa (continental margin), hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn hơn. Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý, không được vượt ra ngoài đường đẳng sâu 2500m một khoảng cách quá 100 hải lý. Tại đây, nước chủ có độc quyền khai thác khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống.
Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh những những chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập liên tục, hoà bình từ lâu đời đối với hai quần đảo, Công ước là công cụ pháp lý để phản bác những yêu sách phi lý, ngang ngược của Trung Quốc đối với cái gọi là “đường lưỡi bò” chiếm đến 80% diện tích Biển Đông, vốn là vùng biển nửa kín được bao bọc bởi 9 quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Theo bạn, Việt Nam nên làm gì với giàn khoan trái phép Trung Quốc
Kiên trì dùng lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư buộc rút giàn khoan
Kết hợp đấu tranh pháp lý và đấu tranh ngoại giao
Kiện ra tòa án quốc tế
Tuyên truyền cho người Trung Quốc hiểu thực chất vấn đề
Sau khi Công ước Luật biển 1982 được thông qua ngày 30/4/1982, Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước tại Montego Bay. Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước ta đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này.
Sau hơn 4 năm chuẩn bị và 9 năm đàm phán, ngày 10/12/1982, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật biển 1982), tên tiếng Anh là United Nations Convention on the Law of the Sea, hay thường được gọi tắt là UNCLOS 1982, được 107 quốc gia, trong đó có Việt Nam, ký tại Montego Bay, Jamaica (tính đến nay, số quốc gia ký là 157), đánh dấu thành công của Hội nghị LHQ về Luật biển lần thứ 3, với sự tham gia của trên 150 quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế, kể cả các tổ chức quốc tế phi chính phủ, cùng xây dựng nên một Công ước mới về Luật biển, được nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia không có biển, cùng chấp nhận.
Sau Hiến chương LHQ, Công ước Luật biển 1982 được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia.
Công ước Luật biển 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 (12 tháng kể từ ngày Guyana, nước thứ 60 phê chuẩn Công ước ngày 16/11/1993).
Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 9 Phụ lục, với hơn 1000 quy phạm pháp luật, Công ước Luật biển 1982 đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
Công ước Luật biển 1982 thực sự là một bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế bởi Công ước không chỉ bao gồm các điều khoản mang tính điều ước mà còn là văn bản pháp điển hoá các quy định mang tính tập quán.
Công ước Luật biển 1982 thể hiện sự thoả hiệp mang tính toàn cầu, có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát triển hay là nước đang phát triển…
Công ước không chấp nhận bảo lưu mà đòi hỏi các quốc gia phải tham gia cả gói (package deal), có nghĩa là việc phê chuẩn hoặc tham gia Công ước đòi hỏi quốc gia phải có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các điều khoản của Công ước.
Theo điều 55 – UNCLOS, vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới một chế độ pháp lý riêng. Theo đó các quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển cũng như quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh. Chiều rộng của vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Căn cứ vào điều 57 – UNCLOS, các quốc gia duyên hải chỉ được hưởng quy chế 200 hải lý Vùng đặc quyền kinh tế để khai thác, đánh cá đồng thời là Thềm lục địa để khai thác dầu khí. Điều đó chứng minh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thể thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc bởi lẽ Hoàng Sa cách lục địa Trung Quốc khoảng cách 270 hải lý và Trường Sa cách lục địa Trung Quốc 750 hải lý.
Công ước Luật biển 1982 đã trù định toàn bộ các quy định liên quan đến các vùng biển mà một quốc gia ven biển có quyền được hưởng, cũng như những quy định liên quan đến việc sử dụng, khai thác biển và đại dương, cụ thể là: Quy chế pháp lý của tất cả các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia; Chế độ pháp lý đối với biển cả và Vùng - di sản chung của loài người; các quy định hàng hải và hàng không; việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật và không sinh vật; Vấn đề bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an ninh trật tự trên biển; việc giải quyết tranh chấp và hợp tác quốc tế về biển; Quy chế hoạt động của cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Uỷ ban ranh giới ngoài thềm lục địa, toà án Luật biển quốc tế, hội nghị các quốc gia thành viên Công ước …
Chủ quyền luôn là một vấn đề thiêng liêng của đất nước. Bảo vệ chủ quyền là một trong những mục tiêu của công tác đối ngoại của chúng ta - ngoại giao đóng góp vào vấn đề bảo vệ chủ quyền. Đó là việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định trên thế giới, để chủ quyền được bảo đảm trọn vẹn.
Trên Biển Đông thì chúng ta có chủ quyền và quyền chủ quyền. Công tác ngoại giao phải làm sao để duy trì được môi trường ổn định ở Biển Đông. Thực tế là công tác đối ngoại đã có đóng góp không nhỏ để duy trì chủ quyền và quyền của chúng ta ở biển Đông.
Hiện nay, ở khu vực biển Đông, Việt Nam đang cùng các nước ASEAN để thực hiện tuyên bố DOC và cùng Trung Quốc xây dựng bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC). Điều đó là để duy trì sự ổn định ở Biển Đông cũng như bảo vệ quyền chủ quyền của Việt Nam với thềm lục địa.
Trong đàm phán với Trung Quốc thì nội dung nào sẽ phải nhấn mạnh nhất, thưa ông?
Trung Quốc phải tuân thủ các nguyên tắc luật pháp quốc tế và qui định của Công ước Luật Biển 1982, rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi thềm lục địa Việt Nam, mọi tranh chấp giữa các bên phải được đàm phán bằng biện pháp hòa bình, không được sử dụng vũ lực. Đây là những nội dung quan trọng nhất.
Về nội dung, ta cần tập trung vào yêu sách “Đường lưỡi bò 9 đoạn” của Trung quốc, yêu sách đó vi phạm Công ước Luật Biển năm 1982 và không có giá trị pháp lý. Đây cũng là một yêu sách “ngông cuồng” nhất, nhưng lại rất yếu về cơ sở pháp lý quốc tế. Chính từ yêu sách này mà Trung Quốc đã đòi hỏi chủ quyền đối với 80% diện tích Biển Đông, chiếm đóng phi pháp các đảo Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam, bắt giữ các tàu cá của ngư dân Việt Nam hoạt động hợp pháp trên vùng đặc quyền kinh tế của mình, tiến hành phân lô thăm dò dầu khí và hạ đặt phi pháp dàn khoan 981 trên thềm lục địa của Việt Nam. Bác bỏ yêu sách phi lý này của Trung Quốc là cơ sở để bác bỏ yêu sách chủ quyền của họ đối với các đảo; lên án các hành động xâm lấn áp đặt chủ quyền của Trung quốc, bảo vệ hợp pháp các hoạt động trên biển của ta.