TRƯỜNG THPT PHAN CHU TRINH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Tổ Địa lý Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Phan thiết, ngày 9 tháng 2 năm 2015
Kính gửi:
- Lãnh đạo trường THPT Phan Chu Trinh
- Tổ giám thị
- Giáo viên chủ nhiệm các lớp 10, 11, 12
Thực hiện theo Chương trình số 367/SGDĐT-GDTrH và Kế hoạch số 371/KH-SGDĐT của Sở Giáo dục và Đào tạo cùng ban hành ngày 21/02/2013.
Thực hiện kế hoạch hoạt động ngoại khóa “Tuyên truyền về biển, đảo và công tác biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào, Việt Nam – Campuchia” của tổ Địa lý năm học 2014 - 2015 đã được Lãnh đạo phê duyệt và ghi trong Kế hoạch của trường THPT phan Chu Trinh.
Nay theo kế hoạch, tổ Địa lý xin được tiếp tục triển khai hoạt động ngoại khóa chủ đề II: “Mùa xuân – Biên giới”.
I – Mục tiêu
1. Củng cố kiến thức về chủ quyền biên giới đất Việt Nam cho học sinh; Thông tin, tuyên truyền về những nỗ lực của Việt Nam trong việc xây dựng một đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển với các nước láng giềng.
2. Trau dồi tình yêu quê hương đất nước cho học sinh, từ đó các em có thái độ và trách nhiệm đối với việc bảo vệ chủ quyền biên giới, lãnh thổ, nâng cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh với những âm mưu xuyên tạc sự thật lịch sử biên giới nước ta của các thế lực thù địch.
3. Tạo sân chơi giải trí lành mạnh cho học sinh trong toàn trường, góp phần hình thành một số năng lực cho học sinh.
II – Phương pháp thực hiện
1. Giáo viên tổ Địa lý thông tin tuyên truyền quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào, Việt Nam – Campuchia.
2. Học sinh thi tìm hiểu các kiến thức về chủ quyền biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào, Việt Nam – Campuchia và xếp hình Lãnh thổ Việt Nam.
Dự kiến giải thưởng:
- Giải nhất: 200.000 đồng.
- Giải nhì: 150.000 đồng.
- Giải ba: 100.000 đồng.
- Một số phần quà cho khán giả.
III – Thời gian, địa điểm, đối tượng tham gia
- Thời gian dự kiến: Tiết chào cờ sáng ngày 2/3/2015; Địa điểm: Sân chào cờ.
- Đối tượng tham gia: Học sinh toàn trường.
+ Thành lập 3 đội chơi (mỗi đội 5 học sinh) đại diện 3 khối 10, 11, 12.
+ Mỗi lớp cử 1 học sinh có năng lực tham gia bắt thăm chọn đội chơi vào lúc 7h40 sáng 9/2/2015 tại vị trí để loa máy cháo cờ. Các học sinh đại diện các lớp không trúng vào đội chơi sẽ ở trong đội khán giả và tham gia trả lời các câu hỏi kiến thức nếu các đội chơi không trả lời được.
Để đạt mục tiêu tuyên truyền sâu, rộng nội dung chủ đề hoạt động trong học sinh, tổ Địa lý xin gửi đến toàn thể học sinh nhà trường 1 số câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu nội dung phần thi kiến thức như sau:
1. Biên giới quốc gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm những bộ phận nào?
2. Biên giới quốc gia trên biển nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là gì?
3. Biên giới quốc gia trên biển nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định bằng gì?
4. Biên giới quốc gia trên đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước láng giềng được xác định bằng gì?
5. Tổng chiều dài đường biên giới đất liền Việt Nam? Chiều dài biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia?
6. Việt Nam ký Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia vào thời gian nào?
7. Cột mốc biên giới được cắm mốc đầu tiên trên tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia được cắm tại đâu?
8. Kết quả phân giới, cắm mốc bao nhiêu cột mốc trên tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc? Việt Nam – Lào? Việt Nam – Campuchia?
9. Kể tên các tỉnh nước ta nằm trên tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia.
10. Kể tên các cửa khẩu quốc tế nằm trên tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia.
11. Kể tên 2 ngã 3 biên giới của nước ta.
12. Đặc điểm địa hình đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia?
13. Theo đánh giá của thứ trưởng bộ ngoại giao Việt Nam Hoàng Xuân Sơn “Bộ hồ sơ đầy đủ nhất về đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc” là bộ hồ sơ gồm các văn kiện nào?
14. Theo đánh giá của thứ trưởng bộ ngoại giao Việt Nam Hoàng Xuân Sơn, việc ký kết Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về Qui chế Quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và Quản lý cửa khẩu có ý nghĩa gì?
15. Ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc trên bình diện quốc tế và khu vực?
(Nguồn tham khảo: Tổng quan chung về đường biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia – Báo điện tử Biên phòng Việt Nam; Quan điểm của Dảng và Nhà nước về bảo vệ biên giới quốc gia – Website trường chính trị tỉnh Bến Tre)
Khi nhận được câu hỏi, đề nghị Ban cán sự các lớp tổ chức cho các bạn học sinh lớp mình cùng tham gia tìm hiểu (tổ chức tại lớp trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm tuần 28).
Để hoạt động ngoại khóa thành công, đạt được mục tiêu, ý nghĩa giáo dục cao, rất mong tiếp tục nhận sự chỉ đạo, tạo điều kiện giúp đỡ của Lãnh đạo nhà trường, sự quan tâm, phối hợp của tổ giám thị và đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm các lớp. Tổ Địa lý xin chân thành cảm ơn.
Thay mặt tổ Địa lý
TTCM
Ông Thị Cẩm Lệ
Hoạt động ngoại khóa “Tuyên truyền về biển, đảo và công tác biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia” của tổ Địa lý năm học 2014 - 2015
CHỦ ĐỀ II: “MÙA XUÂN – BIÊN GIỚI”
(Câu hỏi cụ thể)
1. Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam gồm những bộ phận nào?
2. Biên giới quốc gia trên đất liền nước CHXHCN Việt Nam với nước láng giềng được xác định bằng gì?
3. Chiều dài biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc?
4. Việt Nam ký Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc vào thời gian nào?
5. Việt Nam ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam – Lào vào thời gian nào?
6. Việt Nam ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam – Campuchia vào thời gian nào?
7. Cột mốc biên giới được cắm mốc đầu tiên trên tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc được cắm tại đâu?
8. Cột mốc biên giới được cắm mốc đầu tiên trên tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia được cắm tại đâu?
9. Có bao nhiêu tỉnh của nước ta nằm trên tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc.
10. Có bao nhiêu tỉnh của nước ta nằm trên tuyến biên giới Việt Nam – Lào.
11. Có bao nhiêu tỉnh của nước ta nằm trên tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia.
12. Cửa khẩu Lao Bảo là cửa khẩu nằm trên tuyến biên giới Việt Nam với nước nào?
13. Kể tên 2 ngã 3 biên giới của nước ta.
14. Đặc điểm địa hình đường biên giới Việt Nam – Campuchia có gì khác so với đặc điểm địa hình đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc và Việt Nam – Lào?
15. Theo đánh giá của thứ trưởng bộ ngoại giao Việt Nam Hoàng Xuân Sơn “Bộ hồ sơ đầy đủ nhất về đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc” là bộ hồ sơ gồm các văn kiện nào?
16. Theo đánh giá của thứ trưởng bộ ngoại giao Việt Nam Hoàng Xuân Sơn, việc ký kết Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về Qui chế Quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và Quản lý cửa khẩu có ý nghĩa gì?
17. Ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc trên bình diện quốc tế và khu vực?
Hoạt động ngoại khóa “Tuyên truyền về biển, đảo và công tác biên giới Việt Nam - Trung Quốc,
Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia” của tổ Địa lý năm học 2014 - 2015
CHỦ ĐỀ II: “MÙA XUÂN – BIÊN GIỚI”
(Tài liệu tham khảo)
Tổng quan chung về đường biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia
(Báo điện tử Biên phòng Việt Nam)
v Biên giới tuyến biển
Việt Nam có bờ biển dài khoảng 3.260km và một vùng biển rộng lớn trên 1 triệu km2 (gấp 3 lần diện tích đất liền), có 2.779 đảo ven bờ (trong đó có 82 đảo có diện tích trên 1 km2) cùng hai quần đảo lớn là Hoàng Sa và Trường Sa, có 112 cửa sông lớn và có nhiều hải cảng lớn quan trọng (như Hải Phòng, Đà Nẵng, Cam Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn, Cần Thơ...). Vùng biển Việt Nam tiếp giáp, chồng lấn với các nước: Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Philippin, Đài Loan.
Thực hiện Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ngày 12/5/1977 (khoản 7): "Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam sẽ cùng các nước liên quan thông qua thương lượng; trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên", trên cơ sở đó Việt Nam đang tích cực đàm phán, phân định các vùng biển và thềm lục địa với các nước hữu quan.
v Việt Nam – Trung Quốc
Toàn bộ đường biên giới dài 1449,566km (trong đó đường biên giới trên đất liền là 1065,652km, đường biên giới nước là 383,914km) được đánh dấu bằng 1971 cột mốc cho 1378 vị trí mốc chính và 402 vị trí mốc phụ. Mốc số 0 - giao điểm đường biên giới ba nước Việt Nam- Lào- Trung Quốc là mốc lớn được làm bằng đá hoa cương, có ba mặt, gắn quốc huy của ba nước, đặt trên đỉnh núi Khoan La San (Shi Ceng Da Shan), theo Hiệp định về ngã ba biên giới năm 2007 ký giữa CHXHCN Việt Nam, CHDCND Lào và CHND Trung Hoa. Mốc cuối cùng 1378 là mốc đơn, loại trung, làm bằng đá hoa cương, đặt trên phía Đông Nam bãi Dậu Gót (Heng Shi Sha Zhou). Mốc được thiết kế đặt trên đế mốc bằng bê tông hình tròn, cao gần 10m, bảo đảm khi thuỷ triều lên (4- 5m) vẫn nổi trên mặt nước. Từ mốc cuối cùng này, biên giới theo trung tuyến sông kéo đến giới điểm 62 và cũng là điểm bắt đầu của biên giới biển trong vịnh Bắc Bộ.
Khu vực biên giới hai nước có cấu trúc địa hình tương đối phức tạp, độ chia cắt lớn, thấp dần từ Tây sang Đông dẫn đến hệ thống sông suối nơi đây phần lớn có xu hướng chảy từ Tây Bắc xuống Đông Nam, ít có giá trị đối với giao thông đường thủy. Tùy theo mùa, theo từng đoạn, khi thì nước xuống thấp khi thì dâng cao, chảy mạnh gây bồi lở và đổi dòng dẫn đến việc biến đổi địa hình lòng sông. Khu vực này cũng có một số tài nguyên khoáng sản đã và đang được nghiên cứu nhưng nhìn chung các mỏ có trữ lượng thấp, ít có giá trị khai thác thương mại.
Trong những năm 70 của thế kỷ XX, với mục tiêu xác lập một đường biên giới rõ ràng giữa hai nước, ta và Trung Quốc đã tiến hành 03 lần đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền, sau đó đàm phán bị gián đoạn do những biến cố của lịch sử. Cuộc đàm phán được nối lại ngay sau khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ năm 1991. Sau 8 năm kiên trì đàm phán, ngày 30/12/1999, tại Hà Nội, thay mặt hai Nhà nước, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Đường Gia Triền đã ký Hiệp ước về biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, đặt nền tảng cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định lâu dài giữa hai nước.
Ngay sau khi ký Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam -Trung Quốc, hai bên đã thành lập Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc; thỏa thuận chia đường biên giới Việt - Trung thành 12 đoạn, giao cho 12 Nhóm liên hợp phối hợp tiến hành công tác phân giới cắm mốc trên thực địa. Tháng 12/2001, hai bên tiến hành cắm cột mốc đầu tiên tại cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh - Việt Nam) - Đông Hưng (Quảng Tây - Trung Quốc). Từ tháng 10/2002, hai bên đồng loạt triển khai phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung.
Kết quả: Hai bên đã phân giới xong toàn bộ tuyến biên giới đất liền Việt - Trung; cắm tổng số 1971 cột mốc (trong đó có 01 mốc ba Việt Nam - Trung Quốc - Lào; 1548 cột mốc chính; 422 cột mốc phụ). Hệ thống mốc giới này đã được đánh dấu, ghi nhận và mô tả phù hợp với địa hình thực tế một cách khách quan, khoa học, chi tiết. Nếu so sánh với đường biên giới của các nước trên thế giới, đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc được đánh giá là có mức độ cột mốc dầy đặc và rõ ràng nhất, được xác định theo phương pháp hiện đại đảm bảo tính trung thực và bền vững lâu dài.
Kết quả trên là thỏa đáng, hợp tình, hợp lý, đáp ứng yêu cầu của cả hai bên, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản mà hai bên đã thỏa thuận. Đường biên giới được xác lập trên thực địa về cơ bản theo đúng đường biên giới trong Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc 1999. Đối với một số nơi, hai bên cùng điều chỉnh theo nguyên tắc cân bằng về lợi ích và diện tích nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lý và không gây xáo trộn đối với cuộc sống của cư dân biên giới.
Ngày 23/2/2009, ta và Trung Quốc đã long trọng tổ chức Lễ chào mừng hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc tại cửa khẩu Hữu Nghị - Hữu Nghị quan. Đây là một sự kiện quan trọng không chỉ đối với nước ta và quan hệ Việt - Trung mà còn đối với cả khu vực.
Ngay sau khi hoàn thành phân giới cắm mốc, bước sang năm 2009 Việt Nam và Trung Quốc thúc đẩy đàm phán 3 văn kiện: Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới trên đất liền và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Với sự nỗ lực chung của hai bên, ngày 18/11/2009, tại Bắc Kinh, hai bên chính thức ký 3 văn kiện nêu trên đánh dấu hai nước đã hoàn thành trọn vẹn việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền. Tiếp đó, hai bên khẩn trương hoàn thiện các thủ tục phê chuẩn. Ngày 14/7/2010, tại khu vực cửa khẩu Thanh Thủy (Hà Giang - Việt Nam) - Thiên Bảo (Vân Nam - Trung Quốc) hai bên tổ chức lễ công bố các văn kiện trên chính thức có hiệu lực.
Ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc:
Thứ nhất, ta đã giải quyết hai trong ba vấn đề lớn do lịch sử để lại trong quan hệ Việt - Trung. Đó là giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới trên đất liền và vấn đề phân định vịnh Bắc Bộ, chỉ còn lại vấn đề Biển Đông. Những kinh nghiệm giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền sẽ tạo cơ sở cho việc đàm phán giải quyết vấn đề trên biển giữa hai nước.
Hai là, việc xác định một đường biên giới rõ ràng trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc tạo cơ sở để các ngành chức năng tiến hành quản lý biên giới một cách hiệu quả, ngăn ngừa hiện tượng xâm canh, xâm cư do thiếu hiểu biết về đường biên giới; mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, đặc biệt là tạo điều kiện cho các địa phương biên giới hai bên mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị.
Ba là, việc hoàn thành giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền là biểu hiện sinh động của mối quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” Việt Nam - Trung Quốc, góp phần gia tăng sự tin cậy giữa hai bên, tạo động lực mới thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn.
Bốn là, trên bình diện quốc tế và khu vực, việc giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là sự đóng góp thiết thực đối với hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực, góp phần khẳng định các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế: giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ bằng thương lượng hòa bình; không sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp quốc tế.
v Việt Nam – Lào
Đặc điểm địa lý và điều kiện tự nhiên Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào dài khoảng 2.340km, trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam là: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh phía Lào là: Phỏng-sả-lỳ, Luổng-pha-bang, Hủa-phăn, Xiêng-khoảng, Bô-ly-khăm-xay, Khăm-muồn, Sa-vắn-nạ-khệt, Sả-lạ-văn, Sê-kông và Ắt-tạ-pư.
Phần lớn tuyến biên giới giữa Việt Nam và Lào đều đi qua đỉnh hoặc triền núi và qua rừng rậm nhiệt đới, so với mặt nước biển nơi thấp nhất vào khoảng 300m, cao nhất vào khoảng 2.700m; khu vực các cửa khẩu có độ cao trung bình khoảng 500m, có nơi cao trên 1000m. Giữa hai nước có những dãy núi cao hình thành một đường biên giới tự nhiên: phía Bắc từ A Pa Chải trở xuống là dãy Pu Xam Sẩu, phía Nam từ Thanh Hoá trở vào là dãy Trường Sơn. Một số đèo đã trở thành các cửa khẩu nối liền hai nước, còn trên các đoạn biên giới khác, hầu hết là núi non hiểm trở, đi lại khó khăn.
Ngày 18/07/1977, Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã được đại diện hai nhà nước Việt Nam và Lào ký tại thủ đô Viêng-chăn. Việc đàm phán thành công và ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một thắng lợi to lớn của hai Đảng, hai Chính phủ và nhân dân hai nước, đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình xây dựng biên giới Việt Nam - Lào trở thành biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác phát triển lâu dài.
Năm 1978, hai bên bắt đầu tiến hành phân giới, cắm mốc toàn bộ đường biên giới Việt Nam - Lào và hoàn thành công tác này vào năm 1987. Nhưng do mật độ mốc quá thưa, bình quân trên 10 km một mốc (cá biệt có những nơi trên 40 km một mốc). Vì vậy, đường biên giới trên thực địa ở một số nơi không rõ ràng, nên lực lượng quản lý và nhân dân hai bên biên giới không biết rõ được đường biên giới. Xuất phát từ thực tế trên, nhằm phục vụ nhu cầu phối hợp quản lý biên giới ổn định lâu dài, góp phần củng cố bền vững mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Từ tháng 05/2008, Việt Nam và Lào chính thức triển khai Kế hoạch tổng thể thực hiện công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào nhằm mục đích hoàn thiện hệ thống mốc quốc giới giữa hai nước theo hướng chính xác, hiện đại, bền vững và thống nhất trên toàn tuyến biên giới. Tổng số mốc tăng dày và tôn tạo gồm 792 cột mốc với 16 mốc đại, 190 mốc trung, 586 mốc tiểu. Thời gian thực hiện Kế hoạch bắt đầu từ năm 2008, trong đó ưu tiên cắm mốc ở khu vực có cửa khẩu và khu vực có đường giao thông thuận lợi đi qua nhằm tăng cường hợp tác, giao lưu phát triển kinh tế và ổn định trật tự an toàn xã hội vùng biên giới. Ngày 18/01/2008, Việt Nam và Lào đã cùng với Căm-pu-chia cắm mốc ngã ba biên giới và ngày 26/08/2008 tại Hà Nội, đã diễn ra Lễ ký Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa ba nước. Ngày 05/09/2008, tại cửa khẩu Lao Bảo - Đen-sạ-vẳn, hai bên đã long trọng tổ chức Lễ khánh thành mốc đôi 605. Đây là cột mốc đầu tiên chính thức khởi động cho công tác tăng dày và tôn tạo mốc quốc giới giữa hai nước.
v Việt Nam – Campuchia
Đường biên giới đất liền Việt Nam – Campuchia dài 1.137km từ ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia đến sát mép biển Xà Xía, Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang). Đường biên giới đi qua 9 tỉnh của Campuchia (Ratarakiri, Mônđunkiri, Côngpông Chàm, Carachê, Sveyriêng, Prâyveng, Kầnđan, Tàkeo và Kămpốt) và 10 tỉnh của Việt Nam (KonTum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang).
Khác với hai tuyến biên giới Việt Nam - Lào và Việt Nam - Trung Quốc, đường biên giới này có địa hình tương đối bằng phẳng, ít đồi núi hiểm trở. Chính vì vậy, hệ thống giao thông liên kết giữa hai nước bằng đường bộ, đường sông phát triển thuận lợi, hình thành các tuyến đường bộ như đường liên quốc gia, quốc lộ, tỉnh lộ, đường sông và nhiều đường mòn, đặc biệt sau này sẽ hình thành tuyến đường sắt, đường bộ xuyên Á nối kết với các trung tâm thương mại lớn của khu vực góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy giao lưu, hiểu biết lẫn nhau cũng như mang lại nhiều lợi ích thiết thực về kinh tế và thương mại cho cư dân hai bên biên giới. Bên cạnh hệ thống giao thông được cải thiện, hệ thống cửa khẩu biên giới đã và đang được Chính phủ hai nước quan tâm đầu tư. Tính đến tháng 3 năm 2011, hai nước Việt Nam - Căm-pu-chia đã thỏa thuận mở 10 cửa khẩu quốc tế và 12 cửa khẩu chính, trong đó có 19 cửa khẩu đường bộ và 03 cửa khẩu đường sông là Thường Phước (Đồng Tháp) - Côkrôca (Prâyveng); Sông Tiền (An Giang) - Caomsamno (Kầnđan); Vĩnh Hội Đông (An Giang) - Kompung Kroxăng (Tàkeo). Hệ thống cửa khẩu này đã giúp cho việc trao đổi hàng hóa giữa hai nước, sự giao lưu của dân cư hai bên nhanh chóng và thuận tiện.
Sau năm 1954, Việt Nam và Căm-pu-chia đã nhiều lần dự định thương lượng, trao đổi ý kiến về biên giới, lãnh thổ giữa hai nước. Sau khi chiến tranh ở Đông Dương kết thúc, hai bên đã nỗ lực đàm phán và ký kết được 5 hiệp ước, hiệp định về vấn đề biên giới là:
- Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Căm-pu-chia, ký ngày 18/02/1979.
- Hiệp định về vùng nước lịch sử của nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Căm-pu-chia, ký ngày 07/7/1982.
- Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam20/7/1983. và nước CHND Căm-pu-chia, ký ngày
- Hiệp định về quy chế biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Căm-pu-chia, ký ngày 20/7/1983.
- Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Căm-pu-chia, ký ngày 27/12/1985.
Ngày 27/12/1985, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Vương Quốc Campuchia đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới giữa hai nước. Theo Hiệp ước 1985 hai bên dự kiến cắm 322 mốc trên đường biên giới dài 1.137km.
Ngày 27/9/2006 cột mốc đầu tiên (số 171) đã được các cơ quan đại diện của hai bên cắm tại cặp cửa khẩu quốc tế Mộc Bài (tỉnh Tây Ninh) - Bavét (Svay Riêng), mở đầu tiến trình phân giới, cắm mốc trên toàn tuyến.
Có thể nói, quá trình đàm phán, phân giới, cắm mốc tuyến biên giới đất liền giữa Việt Nam và Căm-pu-chia mặc dù có một số khó khăn xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng với sự nỗ lực của chính phủ và sự ủng hộ của nhân dân hai nước, tiến trình phân giới, cắm mốc chắc chắn sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp, góp phần tạo dựng môi trường hoà bình, ổn định khu vực, phục vụ cho công cuộc bảo vệ và phát triển kinh tế đất nước cũng như những mong muốn của người dân hai nước.
“Bộ hồ sơ đầy đủ nhất về đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc”
Năm 1999, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp ước biên giới trên đất liền. Giống như các văn bản pháp lý khác, Hiệp ước bao gồm các thỏa thuận chung, chỉ có thể đi vào đời sống thực tiễn khi có các hiệp định đi kèm hướng dẫn cụ thể.
Ba văn kiện vừa được ký tại Bắc Kinh (1- Nghị định thư về phân giới cắm mốc; 2- Hiệp định quy chế quản lý biên giới Việt - Trung; và 3- Hiệp định về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt – Trung) là các văn kiện có tính chất hướng dẫn, quy định cụ thể, phối hợp triển khai Hiệp ước vào thực tiễn. Ba văn kiện này, cùng với Hiệp ước và hệ thống cột mốc đã được cắm, tạo thành một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh, xác lập chính xác đường biên giới và bảo đảm duy trì ổn định, quản lý một cách khoa học đường biên ấy.
- Nghị định thư phân giới cắm mốc vừa được ký dày 450 trang với trên 2.200 trang phụ lục, mô tả chi tiết đường biên giới một cách chính xác, rõ ràng, khoa học bằng cả lời văn, bản đồ, hồ sơ của từng cột mốc... Nghị định thư này là căn cứ pháp lý xác định đường biên giới chung.
- Hiệp định về quy chế quản lý biên giới vừa được ký quy định cụ thể các nội dung công việc, từ bảo vệ đường biên, mốc giới, đến khai thác sử dụng nguồn nước, các loại mẫu giấy tờ qua lại của người, phương tiện, hàng hóa, phối hợp bảo đảm an ninh, trật tự, tính đến cả các nguyên tắc, biện pháp cụ thể như xử lý xuất nhập cảnh trái phép, sửa chữa, khôi phục mốc giới khi bị hư hại...
- Hiệp định về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu xác định 9 cặp cửa khẩu đã mở và 13 cặp dự kiến sẽ mở trong tương lai, quy định quy trình, thủ tục qua lại, mở các cặp cửa khẩu mới...
Các văn kiện này xác định đường biên, đặt ra cách quản lý mới, rất cụ thể và đồng bộ, phân công rõ nhiệm vụ và trách nhiệm quản lý của ngành, địa phương mỗi bên, tính đến cả những trường hợp chưa xảy ra... nhằm bảo đảm giữ gìn, quản lý đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hiệu quả.
Từ 16 - 18/11/2009, tại Bắc Kinh đã diễn ra cuộc gặp giữa hai Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc. Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hồ Xuân Sơn làm Trưởng đoàn, đoàn Trung Quốc do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Đại Vĩ làm Trưởng đoàn. Hai bên đã kiểm điểm lại công tác của Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc trong 10 tháng qua kể từ khi ra Tuyên bố kết thúc phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc tháng 12/2008.
Hai bên đánh giá cao cố gắng của chuyên viên hữu quan hai nước trong việc xây dựng Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu. Hai bên nhất trí cho rằng, việc ký kết 3 văn kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu việc kết thúc 35 năm đàm phán về biên giới trên đất liền giữa hai nước, chính thức đưa Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt – Trung ký năm 1999 thực sự đi vào cuộc sống.
Hai bên khẳng định sẽ nhanh chóng hoàn tất các thủ tục tiếp theo để các văn kiện nói trên sớm có hiệu lực và sẽ cùng nhau phối hợp triển khai có hiệu quả các văn kiện nhằm xây dựng đường biên giới trên đất liền giữa hai nước thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, góp phần thúc đẩy giao lưu hữu nghị, hợp tác giữa hai nước, nhất là ở các khu vực biên giới.
Về vấn đề trên biển, hai bên khẳng định quyết tâm thực hiện nghiêm túc các thoả thuận liên quan của lãnh đạo cấp cao hai nước, nhất là nhận thức chung đạt được giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Ôn Gia Bảo tại Thành Đô, Tứ Xuyên tháng 10/2009 vừa qua; tuân thủ nghiêm chỉnh Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa ASEAN – Trung Quốc, kiên trì thông qua đàm phán, hiệp thương hữu nghị tìm kiếm giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề biển Đông, cùng nhau nỗ lực duy trì ổn định trên biển; xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, phù hợp với quan hệ hữu nghị giữa hai nước, kể cả vấn đề nghề cá.
Hai bên nhất trí sớm tiến hành đàm phán cấp chuyên viên tại Hà Nội về nội dung thoả thuận nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển giữa hai nước.
Chiều 18/11/2009, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì đã tiếp thân mật Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn và các thành viên đoàn đàm phán Việt Nam. Trong buổi tiếp, ông Dương Khiết Trì đánh giá cao nỗ lực của hai đoàn đàm Việt Nam, Trung Quốc trong việc hoàn thành 3 văn kiện liên quan đến biên giới đất liền; Bộ trưởng Dương Khiết Trì nhấn mạnh Đảng và Chính phủ Trung Quốc coi trọng quan hệ với Việt Nam và mong muốn giải quyết ổn thỏa vấn đề trên biển với Việt Nam.
Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn đã chuyển lời thăm hỏi và lời mời của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Gia Khiêm mời Bộ trưởng Dương Khiết trì sang thăm Việt Nam trong năm 2010.
Ngay sau buổi tiếp, dưới sự chứng kiến của Bộ trưởng Ngoại giao Dương Khiết Trì và Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Văn Thơ, Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn và Thứ trưởng Vũ Đại Vĩ đã ký Nghị định thư về phân giới cắm mốc, Hiệp định quy chế quản lý biên giới Việt – Trung, Hiệp định về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc.
Trong thời gian ở Bắc Kinh, Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn đã trao đổi ý kiến với Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Hồ Chính Dược về các biện pháp thúc đẩy quan hệ hai nước. Hai bên nhất trí tăng cường phối hợp tổ chức tốt các hoạt động trong “năm Hữu nghị Việt – Trung 2010”, trong đó có các hoạt động kỷ niệm 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc 18/1/2010. Hai bên khẳng định việc tổ chức tốt các hoạt động này có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần gia tăng tình hữu nghị và sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, tạo động lực mới thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc.
** Nhân dịp này, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn đã trả lời phỏng vấn của phóng viên Đài THVN thường trú tại Bắc Kinh.
PV: Xin Thứ trưởng cho biết ý nghĩa của việc ký kết 3 văn kiện?
Ông Hồ Xuân Sơn: Với việc ký kết Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về Quy chế Quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và Quản lý cửa khẩu, hai bên Việt Nam-Trung Quốc đã kết thúc 35 năm đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền, hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử giao phó, tạo cơ sở cho việc xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài giữa hai nước.
Sau khi được hai nước phê chuẩn, 3 văn kiện này sẽ chính thức có hiệu lực và Hiệp ước biên giới trên đất liền ký năm 1999 sẽ thực sự đi vào cuộc sống. Đây là sự kiện mang ý nghĩa lịch sử trọng đại trong quan hệ Việt – Trung, tạo điều kiện cho các địa phương biên giới hai bên mở rộng hợp tác kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị. 3 văn kiện này sẽ là cơ sở để các ngành hữu quan hai nước triển khai công tác quản lý biên giới một cách hiệu quả và khoa học.
Việc hoàn thành 3 văn kiện trước thời hạn hơn 1 tháng là kết quả của sự nỗ lực chung của cả hai bên, là đóng góp thiết thực kỷ niệm 10 năm ngày ký Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc, kỷ niệm 60 năm thiết lập ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc và là sự kiện mở đầu cho “Năm hữu nghị Việt – Trung 2010”.
PV: Nội dung chính của những văn kiện đó là gì, thưa Thứ trưởng?
Ông Hồ Xuân Sơn: Nghị định thư phân giới cắm mốc là văn kiện dày 450 trang với trên 2.200 trang Phụ lục kèm theo bao gồm: bộ bản đồ địa hình khu vực biên giới Việt – Trung; tập “Bảng đang ký mốc giới”; tập “Bảng toạ độ, độ cao mốc giới” và tập “Bảng quy thuộc các cồn, bãi trên sông, suối biên giới”.
Nghị định thư mô tả chi tiết hướng đi của toàn bộ đường biên giới, các chi tiết toạ độ cũng như độ cao của từng cột mốc trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc. Để tiện cho việc quản lý, Nghị định thư chia đường biên giới trên đất liền Việt – Trung thành 8 đoạn; mỗi đoạn biên giới và mỗi mốc giới có 01 bộ hồ sơ riêng bao gồm lời văn mô tả, sơ đồ toạ độ và bản đồ.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam – Trung Quốc, từng đoạn biên giới, từng cột mốc biên giới giữa hai nước được thể hiện một cách rõ ràng nhất không chỉ bằng lời văn mà cả trên các sơ đồ và bản đồ, giúp cho mỗi người dân đều có thể dễ dàng nhận biết được đường biên giới. Trên cơ sở của Nghị định thư phân giới cắm mốc, ta có thể áp dụng những phương pháp quản lý hiện đại, kể cả áp dụng kỹ thuật số trong công tác quản lý biên giới, tạo điều kiện cho các cán bộ trực tiếp làm công tác biên giới thực thi nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả nhất.
Hiệp định về Quy chế Quản lý biên giới quy định rõ những nội dung công việc cụ thể của các ngành chức năng trong việc quản lý, bảo vệ đường biên, mốc giới; quy định chi tiết về công tác quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng nguồn nước sông suối biên giới; các quy định về sự qua lại biên giới của người, phương tiện và hàng hoá; quy chế phối hợp trong việc duy trì, bảo đảm an ninh, trật tự trên vùng biên giới. Kèm theo Hiệp định còn có 18 Phụ lục quy định về các loại mẫu giấy tờ trao đổi giữa hai bên trong quá trình xử lý các công việc trên vùng biên giới hai nước.
Hiệp định về Quy chế Quản lý biên giới sẽ thay thế Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên vùng biên giới Việt – Trung ký giữa Chính phủ hai nước năm 1991. Hiệp định Quản lý biên giới vừa ký đã bổ sung nhiều nội dung chi tiết hơn, đồng thời nêu ra các nguyên tắc và biện pháp cụ thể trong việc giải quyết từng vấn đề liên quan đến biên giới trên đất liền Việt – Trung, kể cả những vấn đề nảy sinh như: các biện pháp giải quyết vấn đề xuất nhập cảnh trái phép; các nguyên tắc về xây dựng các công trình ở vùng nước biên giới, vùng biên giới hay sửa chữa, khôi phục mốc giới).
Hiệp định quy định, hai bên thoả thuận thành lập Uỷ ban Liên hợp biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc để phối hợp, đôn đốc, giám sát việc triển khai công tác quản lý biên giới; thoả thuận mỗi bên cử người 8 người Đại diện phụ trách công tác quản lý ở từng đoạn biên giới…. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với Hiệp định tạm thời 1991.
Trước đây, nội dung các vấn đề liên quan đến cửa khẩu được nêu trong Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên vùng biên giới ký năm 1991. Nay, để tạo thuận lợi cho việc quản lý và xử lý các công việc liên quan đến sự qua lại tại các cửa khẩu giữa hai nước, ta và Trung Quốc đã xây dựng một Hiệp định riêng về các vấn đề liên quan đến cửa khẩu trên biên giới Việt – Trung. Điều này phù hợp với luật pháp quốc tế cũng như thực tiễn và thông lệ quốc tế hiện nay.
Hiệp định về cửa khẩu và Quản lý cửa khẩu quy định danh mục 09 cặp cửa khẩu đã mở và 13 cặp cửa khẩu dự kiến sẽ mở trong tương lai; quy định về thời gian làm việc của các cặp cửa khẩu, việc người, phương tiện và hàng hoá qua lại cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc; quy định về quy trình, thủ tục mở các cặp cửa khẩu mới.
Tóm lại, 3 văn kiện vừa ký kết cùng với Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc năm 1999 là bộ hồ sơ hoàn chỉnh nhất về đường biên giới trên đất liền Việt – Trung. Với bộ hồ sơ này, đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc đã được xác định rõ ràng, chính xác. Bộ hồ sơ này là cơ sở để xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị ổn định lâu dài trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc, tạo thuận lợi cho công tác quản lý đường biên, mốc giới giữa hai nước.
PV: Xin ông cho biết những việc hai bên cần tiếp tục triển khai trong thời gian tới?
Ông Hồ Xuân Sơn: Sắp tới hai bên còn phải triển khai một số công việc sau đây:
Trước hết, cần hoàn tất các thủ tục nội bộ phê chuẩn các văn kiện theo quy định và trao đổi công hàm xác nhận việc phê chuẩn để các văn bản này chính thức có hiệu lực. Hai bên đã thoả thuận hoàn tất công việc này trong vòng 6 tháng tới.
Hai là, xúc tiến việc thành lập Uỷ ban liên hợp biên giới Việt Nam – Trung Quốc để thực thi việc điều phối các lực lượng chức năng mỗi bên trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới và giải quyết các vấn đề liên quan đến biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc.
Ba là, tiến hành bàn giao trên thực địa các khu vực quy thuộc mỗi bên theo Hiệp ước 1999 và Nghị định thư phân giới cắm mốc.
Bốn là, cùng phối hợp tuyên truyền, giáo dục cư dân vùng biên giới hai nước tôn trọng đường biên giới mới, nâng cao ý thức của cư dân biên giới hai nước trong việc bảo vệ đường biên, mốc giới.
Năm là, nhằm tạo sự thuận lợi cho tàu thuyền hai bên qua lại khu vực cửa sông Bắc Luân và hợp tác khai thác tiềm năng du lịch khu vực thác Bản Giốc, hai bên cần sớm tiến hành đàm phán và ký kết Hiệp định về quy chế tự do đi lại của tàu thuyền ở khu vực cửa sông Bắc Luân và Hiệp định hợp tác khai thác tiềm năng du lịch thác Bản Giốc trong năm 2010.
PV: Xin ông cho biết kế hoạch của Bộ Ngoại giao trong việc triển khai các văn bản được ký kết?
Ông Hồ Xuân Sơn: Chúng ta sẽ tích cực phối hợp với phía Trung Quốc triển khai các công việc như đã nêu ở trên. Bộ Ngoại giao sẽ trình Chủ tịch nước phê duyệt 3 văn kiện vừa ký và sớm trao đổi công hàm xác nhận với phía Trung Quốc. Về mặt nội bộ, với tư cách là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc, Bộ Ngoại giao sẽ phối hợp với các ngành và địa phương liên quan lên kế hoạch mở các lớp tập huấn, phổ biến những nội dung trong 3 văn kiện vừa ký kết, nhất là đối với những người trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ quản lý, giải quyết công việc trên vùng biên giới Việt – Trung. Bộ Ngoại giao cũng sẽ làm việc với các địa phương hữu quan về công tác chuẩn bị tiếp nhận và bàn giao các khu vực quy thuộc mỗi bên theo Hiệp ước và theo Nghị định thư phân giới cắm mốc.
Bộ Ngoại giao sẽ phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và các ngành hữu quan xây dựng kế hoạch tuyên truyền cho đồng bào cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài về nội dung, ý nghĩa của các văn kiện này nhằm tạo sự đồng thuận rộng rãi trong xã hội trong việc thực thi Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc ký năm 1999 và các văn bản vừa ký kết, góp phần thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ biên giới quốc gia
(Website trường chính trị tỉnh Bến Tre)
Biên giới của một quốc gia có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Biên giới quốc gia ổn định là điều kiện để đảm bảo cho một quốc gia hòa bình và phát triển. Bảo vệ biên giới quốc gia là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị.
Quốc gia hình thành bởi ba thành tố cơ bản là “lãnh thổ, nhà nước và dân cư”. Trong đó, yếu tố biên giới - lãnh thổ là nền tảng đầu tiên. Bản chất vấn đề biên giới - lãnh thổ là hệ trọng và hết sức nhạy cảm, việc bảo vệ toàn vẹn biên giới - lãnh thổ là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia, dân tộc.
Biên giới quốc gia là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó xác định phạm vi chủ quyền quốc gia của một nước đối với lãnh thổ quốc gia (bao gồm: Vùng đất và lòng đất phía dưới; vùng biển, đáy biển, lòng đất dước đáy biển và khoảng không trên vùng đất và vùng biển đó).
Như vậy, biên giới quốc gia là nơi phân chia chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia với quốc gia khác hoặc với các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia đó. Nói cách khác, biên giới quốc gia chính là giới hạn ngăn cách lãnh thổ của quốc gia này với quốc gia khác và ngăn cách lãnh hải với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Biên giới quốc gia của nước CHXHCN Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước CHXHCN Việt Nam. (Điều 3, Nghị định số 140/2004/N Đ - CP ngày 25 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam).
Trong đó:
- Đường ở đây bao gồm: Biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển.
- Mặt thẳng đứng gồm mặt thẳng đứng theo biên giới quốc gia trên đất liền, biên giới quốc gia trên biển xuống lòng đất và lên vùng trời.
Như vậy, biên giới quốc gia nước CHXH Việt Nam bao gồm: Biên giới trên đất liền, biên giới quốc gia trên biển, biên giới quốc gia trong lòng đất và biên giới quốc gia trên không.
- Biên giới quốc gia trên đất liền giữa nước CHXH Việt Nam với các nước láng giềng được xác định bằng hệ thống mốc quốc giới, Hiệp ước về hoạch định biên giới giữa Việt Nam với các nước láng giềng cùng các bản đồ, Nghị định thư kèm theo các hiệp ước đó (Điều 4, Nghị định số 140/2004/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2004).
Mốc quốc giới là dấu hiệu bằng vật thể dùng để đánh dấu đường biên giới quốc gia trên đất liền. Mốc quốc giới của Việt Nam được cắm theo quy định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế về biên giới đã được ký kết với nước láng giềng để đánh dấu đường biên giới quốc gia trên thực địa và được giữ gìn, bảo vệ giữ đúng vị trí, hình dáng, kích thước, ký hiệu, chữ và màu sắc đã được quy định.
- Biên giới quốc gia trên biển là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải các quần đảo Việt Nam.
Ở những nơi lãnh hải, nội thủy, hoặc vùng nước lịch sử của Việt Nam tiếp giáp với lãnh hải, nội thủy hoặc vùng nước lịch sử của nước láng giềng, biên giới quốc gia trên biển được xác định theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết với các nước láng giềng đó.
Biên giới quốc gia trên biển được xác định và đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đồ theo quy định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập (Điều 5, Điều 4, Nghị định số 140/2004/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2004).
- Biên giới quốc gia trong lòng đất là mặt thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển xuống lòng đất.
Ranh giới trong lòng đất thuộc vùng biển là mặt thẳng đứng từ các đường ranh giới phía ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế, thềm lục địa xuống lòng đất xác định chủ quyền, quyền tài phán của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1992 và các Điều ước quốc tế giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.
- Biên giới quốc gia trên không là mặt thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển lên vùng trời (Khoản 4,5 Điều 5 Luật Biên giới quốc gia).
Biên giới quốc gia có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, vì vậy cần phải bảo vệ biên giới quốc gia. Để bảo vệ biên giới quốc gia, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra các quan điểm như sau:
- Thứ nhất, xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Lãnh thổ và biên giới quốc gia là một bộ phận hợp thành quan trọng, không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lãnh thổ và biên giới quốc gia là yếu tố cơ bản bảo đảm cho sự ổn định của đất nước Việt Nam. Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là sự khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung đặc biệt quan trọng của xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa không thể thành công nếu chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia không được xây dựng và bảo vệ tốt.
- Thứ hai, chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ gìn và bảo vệ quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm về chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh của đất nước.”
- Thứ ba, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định; giải quyết các vấn đề tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau.
Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định là vấn đề đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này phù hợp với lợi ích và luật pháp của Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta coi việc giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội. Trong giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, biên giới, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện quan điểm giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau. Về vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, quan điểm nhất quán của Việt Nam là: Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cải đối với vùng biển, đảo của Việt Nam trên biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý về vấn đề này. Tuy nhiên, vì lợi ích liên quan chung của các bên hữu quan, Việt Nam sẵn sàng đàm phán hòa bình để giải quyết.
- Thứ tư, xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang là nòng cốt.
Trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 2013, Đảng ta khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới”.
Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước thống nhất quản lý việc xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia; có chính sách ưu tiên đặc biệt xây dựng khu vực biên giới vững mạnh về mọi mặt.
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Bộ đội biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách phối hợp với lực lượng Công an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật.
Bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức thiêng liêng và cao cả. Bởi vì, đó chính là nhiệm vụ gìn giữ tài sản vô giá mà ông cha ta đã phải đổi bằng xương máu trong lịch sử tồn tại và phát triển của quốc gia, dân tộc. Sự nghiệp ấy đòi hỏi phải có sự quan tâm thích đáng của Đảng, Nhà nước và sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao của các Bộ, Ngành từ Trung ương đến địa phương cùng nhân dân cả nước, với tinh thần “Tất cả hướng về biên giới”, xây dựng biên giới ngày càng giàu mạnh./.